Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 37/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 348/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2021, về việc “Tranh chấp về Ly hôn; Nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/4/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị C, sinh năm 1995;

Nơi cư trú: Ấp H 1, xã N, huyện T, tỉnh An Giang..

2. Bị đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm 1996;

Nơi cư trú: Ấp H 2, xã N, huyện T, tỉnh An Giang.

(Vắng mặt bị đơn anh Lê Văn H; Đã tống đạt hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Hồ Thị C và lời khai tại phiên tòa có nội dung như sau: Chị Hồ Thị C sống chung với anh Lê Văn H từ năm 2018, hôn nhân xây dựng trên cơ sở tự nguyện, không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã Bình Phú, huyện Châu Phú, An Giang (giấy đăng ký kết hôn số 58 ngày 14/6/2018); Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng trong tình cảm vợ chồng, thường xuyên hay cãi nhau, không còn tôn trọng nhau và đã sống ly thân đến nay. Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên Lê Ngọc U sinh ngày 22/10/2019 và hiện tại đang sống chung với chị C.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Hồ Thị C yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn H; Về con chung yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản thì tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

* Về phía bị đơn anh Lê Văn H thì: Toà án đã nhiều lần gửi Thông báo đến gia đình nhằm tạo điều kiện hoà giải đoàn tụ và hàn gắn quan hệ vợ chồng giữa hai người nhưng đều vắng mặt không lý do. Qua chứng cứ thu thập được thì anh Lê Văn H có nơi cư trú tại Ấp H 2, xã N, huyện T, tỉnh An Giang; Hiện tại anh Lê Văn H không thường xuyên có mặt tại địa phương nhưng không cung cấp nơi làm việc hoặc địa chỉ mới nên Tòa án đã thông qua Thừa phát lại thực hiện các thủ tục tố tụng để mở phiên tòa xét xử theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện và được thẩm tra tại phiên tòa, qua tranh luận công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận xét như sau:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về xin ly hôn và nuôi con chung, căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Văn H vắng mặt lần thứ hai, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên tòa.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị C đã thừa nhận có sống chung như vợ chồng với anh Lê Văn H từ năm 2018 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật; Nay do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, cuộc sống chung không phù hợp nên chị C xin được ly hôn với anh H. Xét thấy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; Cuộc sống hôn nhân vợ chồng là nhằm xây dựng một gia đình thật sự hạnh phúc, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc và quan tâm lẫn nhau nhưng quan hệ vợ chồng giữa chị C và anh H đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn tồn tại, Tòa án nhiều lần mời anh Lê Văn H để hòa giải cho anh, chị đoàn tụ nhưng anh H không còn quan tâm đến cuộc sống vợ chồng, vẫn không có mặt. Như vậy, quan hệ vợ chồng giữa anh, chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân giữa hai người không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên chấp nhận yêu cầu của chị Hồ Thị C là được ly hôn với anh Lê Văn H.

[3] Về quan hệ con cái, cấp dưỡng: Chị Hồ Thị C thừa nhận cháu Lê Ngọc U sinh ngày 22/10/2019 là con chung của chị và anh Lê Văn H, giấy khai sinh của cháu cũng đã thể hiện điều này, do đó cần công nhận cháu Lê Ngọc U là con chung của chị C và anh H, đồng thời phía chị Hồ Thị C có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Xét thấy, từ khi anh, chị không còn sống chung nữa thì cháu U đã sống chung với chị C đến nay, đồng thời phía anh H cũng không tranh chấp; Do đó, để ổn định tâm lý và cuộc sống cho cháu nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Hồ Thị C là được tiếp tục nuôi cháu Lê Ngọc U. Ngoài ra, phía chị Hồ Thị C không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, tuy nhiên khi điều kiện kinh tế và điều kiện nuôi con có thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con, cấp dưỡng trong một vụ kiện khác.

[4] Về quan hệ tài sản, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí, lệ phí sơ thẩm: Do chị Hồ Thị C có yêu cầu ly hôn với anh Lê Văn H nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình 2014; Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điểm a khoản 5 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

- Xử:

* Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Hồ Thị C là được ly hôn với anh Lê Văn H. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 58 ngày 14/6/2019 do Uỷ ban nhân dân xã Bình Phú (huyện Châu Phú, An Giang) cấp không còn giá trị pháp lý.

* Về quan hệ con cái, cấp dưỡng: Công nhận cháu Lê Ngọc U sinh ngày 22/10/2019 là con chung của chị Hồ Thị C và anh Lê Văn H;

+ Giao cháu Lê Ngọc U cho chị Hồ Thị C được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (hiện cháu U đang sống chung với chị C); Anh Lê Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Hồ Thị C.

+ Chị Hồ Thị C cùng các thành viên trong gia đình (nếu có) không được cản trở anh Lê Văn H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.

+ Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

* Về quan hệ tài sản, nợ chung: Tự thỏa thuận.

* Về án phí, lệ phí sơ thẩm: Chị Hồ Thị C phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm, đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu số 0002945 ngày 17/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, An Giang; Được khấu trừ nên chị Hồ Thị C đã nộp xong.

Báo cho đương sự có mặt tham dự phiên tòa biết có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án (có lý do khách quan) có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt bản án hợp lệ, để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;