Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2022/ QĐXXST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn P, sinh ngày 01/01/1959, tại CH, ML, Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã CH, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn S (đã chết) và con bà Lường Thị T, (đã chết); có vợ là Thào Thị S, sinh năm 1975 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1981, con nhỏ nhất sinh năm 1989; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 13/10/2009 bị Tòa án nhân dân huyện ML xử phạt 07 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim L, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 21/10/2021 Công an xã CH phát hiện, bắt quả tang Lò Văn P đang có hành vi cất giấu trái phép 01 túi nilon màu xanh, viền đỏ, bên trong chứa 84 viên nén hình tròn màu hồng nghi là Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời.

Vật chứng thu giữ:

01 túi nilon màu xanh, viền đỏ, bên trong chứa 84 viên nén hình tròn màu hồng nghi là Methamphetamine.

Ngày 22/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML và Viện kiểm sát nhân dân huyện ML tiến hành bóc mở niêm phong và cân tịnh vật chứng thu giữ khi bắt quả tang. Kết quả: 01 túi nilon màu xanh, viền đỏ, bên trong chứa 84 viên nén hình tròn màu hồng, trên mỗi viên có ký hiệu WY, có khối lượng 7,23 gam, trích lấy 05 viên nén có khối lượng 0,43 gam làm mẫu giám định ký hiệu P. Còn lại 79 viên nén có khối lượng 6,8 gam, ký hiệu PA, nhập kho vật chứng. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định số 111. Tại Kết luận giám định số 1689 ngày 24/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu P là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,43 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 7,23 gam loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, Lò Văn P khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 20/10/2021 Lò Văn P đang ở nhà tại bản C, xã CH, huyện ML thì có một người đàn ông dân tộc Mông (P không biết tên, tuổi, địa chỉ) đến nhà P. Qua trao đổi P đã hỏi và mua được của người đàn ông này 84 viên Methamphetamine đựng trong 01 túi nilon màu xanh viền đỏ với số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi mua được Methamphetamnie về P cất giấu vào trong người với mục đích ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Đến khoảng 09 giờ 40 phút ngày 21/10/2021 khi P đang ở nhà thì bị lực lượng Công an xã CH phát hiện, bắt quả tang.

Đối với người đàn ông dân tộc Mông theo lời khai của Lò Văn P là người đã bán Methamphetamine cho P, P không biết rõ địa chỉ cụ thể ở đâu, ngoài lời khai của Lò Văn P Cơ quan điều tra Công an huyện ML không thu thập được tài liệu chứng cứ khác nên không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Tại Bản cáo trạng số 20/CT-VKS-ML ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo Lò Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn P đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt Lò Văn P từ 08 năm đến 09 năm tù giam; Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Đối với vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở + 01 túi nilon màu xanh, viền đỏ + túi nilon màu trắng ký hiệu PA = 6,8 gam).

Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án: Đề nghị miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lò Văn P.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Lò Văn P khẳng định bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, pháp luật Nhà nước và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì bị cáo có trình độ hiểu biết, nhận thức kém, sau khi phạm tội đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo. Đề nghị miễn án phí và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, vì bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định, tài sản không có giá trị lớn.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn P thừa nhận: Ngày 21/10/2021 Lò Văn P đã có hành vi cất giấu trái phép 7,23 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, thông báo kết quả giám định vật chứng của vụ án, lời khai của người chứng kiến.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn P đã thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy, được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng do nghiện ma túy và hám lời bất chính nên bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi cất giấu trái phép 7,23 gam Methamphetamine để sử dụng và bán kiếm lời được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương.

[3] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Toà cần xem xét chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo, áp dụng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Về nhân thân: Ngày 13/10/2009 bị Tòa án nhân dân huyện ML xử phạt 07 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích. Do đó bị cáo thuộc trường hợp có nhân thân xấu.

[4] Về hình phạt Về hình phạt chính: Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, cơ quan chức năng không có cơ sở chứng minh, xử lý. [6] Về vật chứng của vụ án:

01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở + 01 túi nilon màu xanh, viền đỏ + túi nilon màu trắng ký hiệu PA = 6,8 gam). Là của bị cáo dùng thực hiện tội phạm, và là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo Lò Văn P là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn tiền án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015:

Tuyên bố: bị cáo Lò Văn P, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn P 08 (Tám) năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 21/10/2021).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an tỉnh Sơn La được niêm phong dán kín, (đựng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở + 01 túi nilon màu xanh, viền đỏ + túi nilon màu trắng ký hiệu PA = 6,8 gam).

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/3/2022 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện ML và Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML).

3. Về án phí:

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Toà án: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn P.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 29/3/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST

Số hiệu:44/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;