Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 04/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 01/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/01/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 01 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 343/2017/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2017, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị C – sinh năm 1979

Hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Nơi ở: Số nhà 47/16, Đường số 10, Khu phố 3, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn T – sinh năm 1972

Địa chỉ: ấp 2, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

(Chị C và anh T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/10/2017 và lời khai trong quá trình thụ lý hòa giải, tại phiên tòa nguyên đơn chị Trương Thị C trình bày:

- Về hôn nhân: Chị C và anh Đinh Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 26 tháng 9 năm 2007 tại Uỷ ban nhân dân xã P và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định. Anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2011 thì xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau và có đánh chị, vì vậy chị đã đưa con đi Thành phố Hồ Chí Minh kiếm việc làm và anh chị không còn sống chung cho đến nay. Bản thân chị đã cố gắng cho anh cơ hội hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Chị nhận thấy tình cảm không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly với đối với anh T.

- Về nuôi con chung: Chị và anh T có 01 (một) con chung là cháu Đinh Thị Mỹ A – sinh ngày 10/01/2009, do chị trực tiếp nuôi dưỡng từ năm 2016 đến nay. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, tạm thời không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay bản thân chị làm công nhân thu nhập ổn định trung bình khoảng 6.500.000đ/tháng, đủ khả năng nuôi dưỡng con chung.

- Về tài sản, nợ chung: Chị C khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án bị đơn anh Đinh Văn T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh T thừa nhận chị C trình bày như trên là đúng. Vợ chồng chung sống đến năm 2010 thì chị C lên Thành phố Hồ Chí Minh làm công nhân, còn anh đi làm tại huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 2012, chị nghi ngờ anh có quan hệ người phụ nữ khác nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, tuy nhiên anh được biết chị đã có mối quan hệ với người đàn ông khác, vì vậy vợ chồng không thể hòa giải đoàn tụ và đã không còn sống chung từ năm 2012 cho đến nay. Anh nhận thấy tình cảm không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị C yêu cầu được ly hôn thì anh đồng ý, nhưng do bản thân anh có theo đạo Thiên Chúa nên không thể thuận tình ly hôn, anh yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nhưng tiến hành xét xử vắng mặt anh.

- Về con chung: có 01 (một) con chung là cháu Đinh Thị Mỹ A – sinh ngày 10/01/2009, đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng từ năm 2016 đến nay. Hiện nay bản thân anh có nghề nghiệp làm ruộng và thu nhập không ổn định, vì nhận thấy chị C đủ khả năng nuôi dưỡng và nhất định nuôi con nên anh đồng ý giao con cho chị tiếp tục nuôi dưỡng, tạm thời anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản, nợ chung: Anh T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyên đơn đã giao nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu, chứng cứ sau đây: Trích lục kết hôn, chứng minh nhân dân của các đương sự (bản sao), trích lục khai sinh của con (bản sao), Đơn yêu cầu Tòa án xác minh thu thập chứng cứ của nguyên đơn, Đơn đề nghị xác nhận đang là học sinh của con chung, Đơn xác nhận mức lương của nguyên đơn, Đơn thể hiện nguyện vọng của con chung. Bị đơn đã giao nộp tài liệu, chứng cứ sau đây: Đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải, nhưng tiến hành xét xử vắng mặt. Sau khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án có nhận được Đơn yêu cầu xét xử vắng mặt của chị C ngày 02/01/2018.

Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Bản tự khai của nguyên đơn, Biên bản lấy lời khai của bị đơn, Biên bản xác minh về quan hệ hôn nhân và con chung. Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không có thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; anh T không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của chị C.

+ Về hôn nhân: Cho chị C được ly hôn với anh T.

+ Về con chung: Giao cháu Đinh Thị Mỹ A – sinh ngày 10/01/2009 cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng, do chị C không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

+ Về án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Nguyên đơn phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ - ST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Bị đơn anh Đinh Văn T cư trú tại xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Chị Trương Thị C khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh T, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định tư cách đương sự chị C là người khởi kiện nên xác định chị là nguyên đơn, anh T là bị đơn được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Các đương sự có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. C cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị C và anh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tân Phú và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, vào sổ cấp giấy số 32/2007 ngày 26/9/2007. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Chị C và anh T đều thừa nhận có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị không tin tưởng nhau về chuyện tình cảm, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau. Hai người đã không còn sống chung từ năm 2012 cho đến nay và từ đó mỗi người mạnh ai nấy sống, không quan tâm đến nhau, anh chị đã tự hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Bên cạnh đó anh T cũng đồng ý ly hôn nhưng do anh là người theo đạo thiên chúa nên anh không thể thuận tình ly hôn. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại địa phương cũng phù hợp với lời khai các đương sự.

Do đó, có đủ cơ sở để xác định, chị C và anh T đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. C cứ Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị C được ly hôn với anh T.

- Về nuôi con chung: Chị C yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Đinh Thị Mỹ A – sinh ngày 10/01/2009 và anh T cũng đồng ý giao con cho chị nuôi vì thu nhập của anh không ổn định, anh T không cấp dưỡng nuôi con chung do chị C không yêu cầu. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về nuôi con chung tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Từ sau khi vợ chồng không còn sống chung năm 2012 đến nay thì con chung đang do chị C trực tiếp nuôi dưỡng, bản thân chị có lối sống đạo đức tốt, có trách nhiệm lo cho con được đi học, chị làm công nhân thu nhập ổn định trung bình khoảng 6.500.000đ/tháng, hơn nữa cháu Mỹ A cũng có nguyện vọng được chung sống với chị. C cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy sự thỏa thuận của các bên đương sự như trên là phù hợp với quy định của pháp luật, trên cơ sở tự nguyện của các bên và phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập nên ghi nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự về việc giao con chung Đinh Thị Mỹ A cho chị C nuôi dưỡng. Tạm thời miễn cho anh T nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 24; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị C. Cho chị C được ly hôn với anh Đinh Văn T.

- Về nuôi con chung, ghi nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự: Giao con chung Đinh Thị Mỹ A – sinh ngày 10/01/2009 cho chị Trương Thị C nuôi dưỡng, tạm thời miễn cho anh T nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung chưa thành niên, các đương sự có quyền xin thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

2. Về án phí: Chị C phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đồng chị C đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 007245 ngày 09/10/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.

3. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự 2008; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2018/HNGĐ-ST ngày 04/01/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:01/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;