Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23/6/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2021/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Văn P, sinh năm 1978; Trú tại: Số 156 Trần Hưng Đ, tổ dân phố 6, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Trương Thị Ngọc Ph, sinh năm 1981; Trú tại: Số 156 Trần Hưng Đ, tổ dân phố 6, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cũng như tại phiên toà nguyên đơn ông Lê Văn P trình bày:

Về hôn nhân: Tôi và cô Trương Thị Ngọc Ph tự nguyện đặng ký kết hôn ngày 07/4/2009 tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình chung sống chúng tôi sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chúng tôi không hợp nhau, không cùng chung quan điểm sống, chúng tôi không hiểu ý nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không có hướng ti ến triển gì về hạnh phúc gia đình. Mặc dù hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương đã hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả, chúng tôi đã sống ly thân từ 06/2010 cho đến nay. Hiện nay tôi không còn tình cảm và không muốn tiếp tục chung sống với cô Ph nữa. Tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với cô Trương Thị Ngọc Ph.

Về con chung: Chúng tôi có một con chung Lê Uyên M, sinh ngày 05/8/2009. Tôi có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Hiện nay tôi làm nông, hết việc tôi làm thêm nghề nhôm kính.

Về cấp dưỡng: Tôi không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng.

Về tài sản chung và công nợ: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Tôi tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

- Bị đơn bà Trương Thị Ngọc Ph trình bày: Tôi và anh Lê Văn P có quan hệ là vợ chồng, chúng tôi tự nguyện đặng ký kết hôn ngày 07/4/2009 tại UBND thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lăk. Quá trình chung sống chúng tôi sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là tính tình quan điểm sống không hợp nhau, chúng tôi không hiểu nhau. Vợ chồng sống chung với nhau không ai nói chuyện với nhau, vì lý do công việc bận rộn nên chúng tôi không có nhiều thời gian cho nhau, tôi đã cố gắng níu kéo hạnh phúc gia đình nhưng anh P không đồng ý, vợ chồng sống chung một nhà mà mạnh ai nấy sống, không ăn chung, ngủ chung. Tuy nhiên, Tôi nhận thấy mâu thuẫn giữa chúng tôi chưa đến mức trầm trọng, nguyên nhân dẫn đến rạn nứt gia đình là do anh P không quan tâm, chăm sóc gia đình và chăm sóc con cái, anh P xin ly hôn tôi không đồng ý, tôi mong muốn đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con cái.

Quá trình chung sống chúng tôi có 01 con chung Lê Uyên M, sinh ngày 05/8/2009. Hiện nay cháu đang sống cùng tôi. Trường hợp chúng tôi ly hôn tôi có nguyện vọng được tiếp nuôi dưỡng giáo dục cháu M đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, anh P cấp dưỡng hay không thì tuỳ vào trách nhiệm của anh P đối với cháu M. Hiện nay tôi đang làm thợ cắt tóc, thu nhập bình quân 6-7 triệu/ tháng, đảm bảo cho việc chăm sóc con cái.

Về tài sản chung và công nợ: Tôi chưa yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện VKSND thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Về nội dung giải quyết vụ án xét thấy mâu thuẩn đã trầm trọng, vợ chồng ly thân đã lâu, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh P, cho anh Ph được ly hôn với chị Ph và giao con chung cho anh P được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (Tròn 18 tuổi), do anh P không yêu cầu nên chị Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh P là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Tại phiên toà các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu, ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào lời trình bày của các bên đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- [1]Về thẩm quyền giải quyết: HĐXX xác định đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về Hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là phù hợp với khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự;

- [2]Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về hôn nhân: Anh P và chị Ph xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 07/4/2009 tại UBND thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Lúc đầu vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau, không cùng chung quan điểm sống, không hiểu ý nhau và quan tâm chăm sóc đến nhau, Mặc dù hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương đã hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân từ 06/2010 cho đến nay, năm 2017 anh P đã khởi kiện xin ly hôn với chị Ph được toà án hoà giải đoàn tụ thành nhưng mâu thuẩn lại tiếp tục phát sinh không có hướng tiến triển gì về hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết thì chị Ph mặc dù thừa nhận đã cố gắng níu kéo hạnh phúc gia đình nhưng anh Ph không đồng ý, vợ chồng sống chung một nhà mà mạnh ai nấy sống, không ăn chung, ngủ chung nhưng lại mong muốn được đoàn tụ, Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần, anh P vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn vì cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, không thể sống chung được nữa. Hơn nữa qua xác minh tại địa phương nơi các bên cư trú đã xác nhận các bên đã từng có đơn yêu cầu địa phương hoà giải mâu thuẩn của vợ chồng. Xét yêu cầu ly hôn của anh P thì thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, không thể hoà giải, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện tại cả hai đều còn trẻ neân cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh P để tạo điều kiện cho cả hai có một cuộc sống riêng phù hợp hơn quy định tại Điều 51, Điều 54, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống anh P và chị Ph có 01 con chung tên Lê Uyên M, sinh ngày 05/8/2009 hiện đang ở chung trong gia đình cùng cha mẹ, mặc dù chị Ph không muốn ly hôn, nhưng trường hợp toà án chấp nhận cho ly hôn thì các bên đều yêu cầu được nuôi con chung. Xét yêu cầu của các bên về việc nuôi dưỡng con chung thì thấy rằng, khi ly hôn cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, đồng thời để con chung được nuôi dưỡng và phát triển về mọi mặt, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà ý kiến của cháu M đều có nguyện vọng được ở với anh P, nên cần chấp nhận yêu cầu của anh P và nguyện vọng của con chung giao con chung cho anh P được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (tròn 18 tuổi); Về cấp dưỡng nuôi con chung anh P không yêu cầu đây là sự tự nguyện định đoạt của anh P nên cần chấp nhận không đặt ra để xem xét giải quyết, chị Ph được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở; vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung và công nợ chung: Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra để xem xét giải quyết theo quy định Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về án phí: Anh P phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

- Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

-Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH 12 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Văn P.

- Về hôn nhân: Cho anh Lê Văn P được ly hôn với chị Trương Thị Ngọc Ph.

- Về con chung: Giao con chung tên Lê Uyên M, sinh ngày 05/8/2009 cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (tròn 18 tuổi); anh P không yêu cầu nên chị P không phải trợ cấp nuôi con chung cho anh P. Chị Ph được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở; vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Các bên không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

- Về án phí: Anh Lê Văn P phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0018170 ngày 26/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ.

Báo cho các bên đương sự có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 23/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;