Bản án 396/2018/HSST ngày 18/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 396/2018/HSST NGÀY 18/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 10 năm 2018, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên.Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 365/2018/HSST, ngày 28 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 382/2018/QĐXXST-HS ngày 28/9/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn T, tên gọi khác: Khôngsinh ngày: 28/02/2000. Nơi đăng ký HKTT: Thôn T, xã Ph, huyện Ch, tỉnh T;Chỗ ở: Không xác định; Nghề nghiệp: Không;Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Văn C; Con bà: Hà Thị Hn; Vợ, con: Chưa có. Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2018 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Chị Ly Mey L, sinh năm 1997 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Phòng 106, Ký túc xá nhà K1, Trường Cao Đẳng Kinh tế Tài Chính – Thái Nguyên (Tổ 16 phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên)

* Người chứng kiến:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1988, trú tại: Tổ 6, phường T, Thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Đức H2, sinh năm 1993, trú tại: Tổ 17, phường T, Thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (vắng mặt)

3. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1990, trú tại: Xóm B, xã T, Thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 07/6/2018, do cần tiền tiêu sài cá nhân nên Hà Văn T đã nảy sinh ý định đi vào trong trường Cao đẳng Kinh tế -Tài Chính Thái Nguyên xem ai có sơ hở để trộm cắp tài sản. Sau khi vào bên trong trường, T đi đến khu ký túc xá, khi đến phòng 106 nhà K1 thì thấy trong phòng có 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu xám đang cắm sạc đặt trên chiếc ghế sát cạnh giường (sau xác định là tài sản của chị Ly Mey Lang, sinh năm 1997, tạm trú tại tổ 16, phường ThịnhĐán, thành phố Thái Nguyên, du học sinh người Campuchia). Quan sát thấy chị Ly Mey Lang đang ngủ, không quản lý tài sản nên T đã dùng tay trái cầm lấy chiếc điện thoại di động, tay phải rút chân sạc điện thoại ra rồi giấu chiếc điện thoại vào túi quần và đi ra khỏi phòng. Sau đó, T đi đến quán Internet Anh Quân (thuộc phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên) để chơi điện tử. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, T gặp Nguyễn Đức H (sinh năm 1993; trú tại: tổ 17, phường Thịnh Đán, TP Thái Nguyên), H rủ T về nhà H ăn cơm.Sau đó T nói với H về việc nhặt được 01 chiếc điện thoại iphone 6 tại quán Internet, đồng thời đưa chiếc điện thoại cho H xem. Đúng lúc đó, T nhận được cuộc gọi của chị Nguyễn Thị H (sinh năm1988; trú tại tổ 06 phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên là cán bộ phòng quản lý sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Thái Nguyên) với nội dung chị H muốn xin chuộc lại chiếc điện thoại iphone 6. T nói với chị H rằng chiếcđiện thoại trên hiện đang được cầm cố cho T bởi một người phụ nữ lạ mặt với giá 2.500.000 đồng, nếu chị H muốn chuộc lại thì phải đưa cho T 2.500.000 đồng.

Khoảng 13 giờ cùng ngày, khi T và H đang đi chơi thì nhận điện thoại của Nguyễn Văn B (sinh năm 1990, trú tại xóm B, xã Tc, thành phố Tn) rủ đi uống bia. Cả ba đến quán bia Hoàng thuộc tổ 21, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên. Tạiđây, T tiếp tục nói dối B về việc nhặt được 01 chiếc điện thoại iphone 6 ở quán internet và có người muốn chuộc. Lúc này, chị H gọi lại cho Tvà hẹn gặp T lúc 15 giờ cùng ngày tại cổng Bệnh viện A Thái Nguyên để chuộc lại điện thoại. T đồng ý và nhờ H và B đi gặp chủ sở hữu chiếc điện thoại để cho chuộc. Do sợ bị phát hiện hành vi trộm cắp tài sản nên T bảo H và B đi gặp chị H và xác nhận đúng là chủ của chiếc điện thoại thì cho chuộc với giá 2.500.000 đồng, nếu chủ chiếc điện thoại không có tiền thì trả lại chiếc điện thoại. Khoảng 15 giờ cùng ngày, H và B đến khu vực cổng bệnh viện A Thái Nguyên và gặp chị H và chị Ly Mey L. Tại đây, B đề nghị chị Ly Mey L nhập mật khẩu máy, mật khẩu icloud nếu chính xác thì mới trả điện thoại. Sau khi chị Ly Mey L nhập mật khẩu thành công, H và B nói nếu muốn chuộc lại thì đưa cho H và B 2.500.000 đồng. Đúng lúc này, Công an phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên đến, đưa H và B về trụ sở làm việc. Đồng thời triệu tập T đến trụ sở để làm việc.

Tại bản Kết luậnđịnh giá tài sản số 155/HĐĐGTS ngày 10/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01 điện thoại iphone 6 màuđen – xám, đã qua sử dụng, số imel 356989066136981 có giá trị là: 4.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 366/CT-VKSTPTN ngày 27 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Hà Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên; Chị Ly Mey L xác định đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyêngiữ quyền công tố đã trình bày bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Hà Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

*Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51,Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Hà Văn T từ 09 đến 12 tháng tù.

* Hình phạt bổ sung:Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

* Trách nhiệm dân sự:

- Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

* Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo Hà Văn T: Không đối đáp, tranh luận. Nhất trí với nội dung Bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát,thừa nhận việc truy tố xét xử là đúng người, đúng tội, không oan.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo xin hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyêntrong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hà Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó,các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án như: biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận định giá. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 07 giờ ngày 07/6/2018, tạiphòng 106 nhà K1 ký túc xá trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Thái Nguyên, Hà Văn Tđã trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu đen – xám trị giá 4.000.000 đồng của chị Ly Me Lang. Hiện tài sản trên đãđược trả lại cho chị Ly Me Lang quản lý sử dụng.

Như vậy với hành vi nêu trên của bị cáoHà Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3]. Bản cáo trạng số: 366/CT-VKSTPTN ngày 27/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Hà Văn T về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nội dung điều 173 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng...thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi với lỗi cố ý, làm mất trật tự an toàn xã hội, bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h,i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải có mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.Mức án mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp được chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:Bị hại chị Ly Mey Lang có đơn xin xét xử vắng mặt, chị Lang xác định đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gìnênHội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8].Các vấn đề khác:Đối với Nguyễn Đức Hưng và Nguyễn Văn Bắc, quá trình điều tra xác định Hưng và Bắc không biết chiếc điện thoại di động iphone 6 mà Hà Văn Tđưa cho là do T trộm cắp mà có, Hưng và Bắc cũng không có ý định cưỡng đoạt tài sản của chị Ly Mey Lang nên hành vi của Hưng và Bắc không cấu thành tội phạm. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã lập biên bản giáo dục, nhắc nhở đối với Hưng và Bắc.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, điểm h,i,s khoản 1 Điều 51,Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1/ Xử phạt:Bị cáo Hà văn T 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 09/6/2018.

- Quyết định tạm giam bị cáo Hà Văn T 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

4.Về án phí:Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hạivắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 396/2018/HSST ngày 18/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:396/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;