Bản án 47/2018/HS-ST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 47/2018/HS-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã S, huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2018/TLST- HS ngày 14 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn K; sinh ngày 23/12/1975 tại xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: thôn 6, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Phạm Văn Q, sinh năm 1954 và bà Đỗ Thị C, sinh năm 1950. Vợ: Chị Trần Thị K, sinh năm 1977. Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2009.

Tiền án: Bản án số 10/2015/HSST ngày 12/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/9/2017. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/6/2018 đến 08/6/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V. (Bị cáo trích xuất có mặt).

2. Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 1976,

Nơi cư trú:Thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình;

- Anh Nguyễn Như T, sinh năm 1981,

Nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình

(Anh Nguyễn Bá T và anh Nguyễn Như T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 ngày 05/6/2018, tại khu vực cầu T, thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma tuý Công an huyện V, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn K đang tàng trữ trái phép tại túi quần dài phía sau, bên trái Khoa đang mặc 04 gói Hêrôin có khối lượng 0,3678 gam (không phẩy ba nghìn sáu trăm bẩy mươi tám gam), mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại phiên tòa, Phạm Văn K khai nhận: Do bị mắc nghiện ma túy nên khoảng 06 giờ 30 phút ngày 05/6/2018,  Khoa  mang theo 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) đi bộ từ nhà ở thôn 6, xã V, huyện V ra đường liên xã và thuê một người đàn ông không quen biết, khoảng 55 tuổi chở sang tỉnh Nam Định sang tỉnh Nam Định tìm mua Hêrôin về sử dụng. K trả trước cho người đàn ông này 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng). Khi đến khu vực đê Q, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định, K xuống xe và bảo người lái xe ôm đợi rồi đi bộ khoảng 20 mét, gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ  01 túi nilon màu trắng trong suốt, bên trong có 04 gói Hêrôin, mỗi gói đều được gói bằng giấy tráng kim màu vàng với giá 200.000đồng. Sau khi mua được ma túy, K cất giấu vào túi quần dài, phía sau, bên trái đang mặc rồi đi bộ ra chỗ người lái xe ôm đang đợi để đi về huyện V, tỉnh Thái Bình. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, khi về đến khu vực cầu Tân Đệ thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, do số tiền đi xe ôm đã hết nên K xuống xe đi bộ thì bị lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần dài, phía sau, bên trái K đang mặc 01 túi nilon màu trắng trong suốt, bên trong có 04 gói Hêrôin có khối lượng 0,3678 gam (không phẩy ba nghìn sáu trăm bẩy mươi tám gam).

Bản kết luận giám định số 215/KLGĐ-PC54 ngày 05/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Phạm Văn K là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,3678 gam (không phẩy ba nghìn sáu trăm bẩy mươi tám gam).

Bản cáo trạng số 43/KSĐT ngày 14/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư đã truy tố Phạm Văn K về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Phạm Văn K mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu số ma túy, loại Hêroin của Phạm Văn K sau giám định hoàn lại còn 0,2229gam cùng bao gói trong bao niêm phong số 215/KLGĐ-PC54 ngày 05/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình để tiêu huỷ.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội, chăm lo cho các con.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như:  Biên bản bắt người phạm tội quả tang và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình lập tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 215/KLGĐ-PC54 ngày 05/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng là anh Nguyễn Bá T và anh Nguyễn Như T.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng  07  giờ  30  ngày 05/6/2018, tại khu vực cầu T, thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma tuý Công an huyện V, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn K đang tàng trữ trái phép tại túi quần dài phía sau, bên trái K đang mặc 04 gói Hêrôin có khối lượng 0,3678 gam (không phẩy ba nghìn sáu trăm bẩy mươi tám gam), mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ ma túy, loại Hêroin có khối lượng 0,3678 gam của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội.

Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, dân tộc nào thoát ra ngoài vùng xoáy khủng khiếp của nó để tránh khỏi những hậu quả do nghiện hút và buôn bán ma túy gây ra. Ma túy đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt kiệt nhân lực tài chính, hủy diệt những tiềm năng quý báu mà lẽ ra phải được huy động cho phát triển kinh tế - xã hội để đem lại ấm no hạnh phúc cho mọi người. Chính ma túy đã gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội…Nghiêm trọng hơn ma tóy cßn lµ tác nhân của căn bệnh thế kỷ HIV, AIDS vµ lµ c¨n nguyªn ph¸t sinh nhiÒu lo¹i téi ph¹m kh¸c.

[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo:

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo K có nhân thân xấu. Bị cáo có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 và không có tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Do vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự: Ngày 12/02/2015 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện V xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/9/2017 nhưng chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý. Do vậy, bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Cần phải xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm .

* Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Bị cáo Phạm Văn K mua ma túy về sử dụng cho bản thân chứ không nhằm mục đích kiếm lời. Bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy, loại Hêroin có khối lượng 0,3678 gam sau giám định hoàn lại còn 0,2229 gam cùng bao gói trong bao niêm phong số 215/KLGĐ-PC54 ngày 05/6/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 15/6/2018) là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước độc quyền quản lý và cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[6] Các vấn đề khác trong vụ án:

Đối  với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Văn K vào ngày 05/6/2018. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình chưa xác định được người phụ nữ đó nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có 15 ngày kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn K phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Phạm Văn K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/6/2018.

2. Về vật chứng, xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu số ma túy, loại Hêroin thu của Phạm Văn K sau giám định hoàn lại còn 0,2229 cùng bao gói trong bao niêm phong số 215/KLGĐ-PC54 ngày 05/6/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình để tiêu hủy

(Vật chứng đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 15/6/2018).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo Phạm Văn K phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Án xử công khai, sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/6/2018

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 47/2018/HS-ST ngày 28/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:47/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;