Bản án 92/2020/HSST ngày 14/07/2020 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 92/2020/HSST NGÀY 14/07/2020 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 07 năm 2020, tại Toà án nhân dân Quận Tây Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 112 /2020/HSST ngày 29 tháng 06 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2020/QĐXX-HSST ngày 01 tháng 7 năm 2020, đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Lò Văn B. - Sinh năm: 1989; HKTT: Bản N., xã N., huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu; Chỗ ở: Không cố định; Trình độ học vấn: 9/12 Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Lò Văn Ph. và Con bà: Lò Thị X.; Vợ: Lò Thị N.; Bị cáo có 03 con. Con lớn sinh năm 2007, con thứ 2 sinh 2009, con nhỏ sinh năm 2018; Theo danh chỉ bản số 182 lập ngày 25 tháng 03 năm 2020 của công an quận Tây Hồ thì Tiền án, tiền sự: 01 tiền án. Bản án số 37/2014/HSST ngày 23 tháng 05 năm 2014, Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, Lai Châu xử phạt 30 tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 06/5/2016 (đã được xóa án tích); Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/3/2020; Hiện đang tạm giam tại trại giam số 1 - Công an TP Hà nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Phương Anh - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Sở Tư pháp Thành phố Hà nội (có mặt).

2/ Họ và tên: Lò Văn H. - sinh ngày 15/4/2002 (thời điểm phạm tội bị cáo 17 tuổi 11 tháng 04 ngày); HKTT: Bản N., xã N., huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu; Chỗ ở: Không cố định; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Lò Văn B2. và con bà: Vàng Thị P.; Theo danh chỉ bản số 184 lập ngày 25 tháng 03 năm 2020 của công an quận Tây Hồ thì tiền án, tiền sự: Không; Bắt quả tang ngày 19 tháng 03 năm 2020; Hiện đang tạm giam tại trại giam số 1 - Công an TP Hà nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị Nga - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Sở Tư pháp Thành phố Hà nội (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 19/3/2020, Lò Văn B. và Lò Văn H. rủ nhau đi mua ma túy Heroine. B. gọi điện cho 01 người đàn ông tên H2. (B. mới biết H2. qua bạn là Vàng Văn O., sinh năm 1997, trú tại N., Xã N., Tam Đường, Lai Châu. B. không biết thông tin về H2.) hỏi mua 200.000 đồng ma túy Heroine, H2. nói khi nào đến nơi thì gọi. B. và H. bắt xe taxi từ khu vực sau bến xe Mỹ Đình đến khu vực chùa cổ Ái Mộ để mua ma túy. Trên đường đi H. nói sẽ trả tiền xe taxi, B. trả tiền mua ma túy. Khoảng 19 giờ 30 phút B. và H. đi đến khu vực chùa cổ Ái Mộ, B. xuống xe, H. và lái xe chờ ở trên xe. Xuống xe B. thấy H2. đang đứng gần đó. B. lại gần hỏi mua 200.000 đồng ma túy Heroine, H2. nói B. đưa 250.000 đồng (trong đó 200.000 đồng tiền mua ma túy, 50.000 đồng tiền công của H2.) và B. đưa cho H2., H2. đi về phía trong chợ gần đó. Trong khi đợi B., H. đã trả tiền taxi cho lái xe 260.000 đồng. B. trong lúc chờ H2. đã đi mua 01 bơm kim tiêm và 01 ống nước cất. Khoảng 10 phút sau H2. quay lại đưa cho B. 02 gói nhỏ cuốn băng dính đen. B. biết đó là ma túy Heroine và lên xe ngồi ở ghế sau cùng H. đưa cho H. 01 gói được bọc ngoài bằng băng dính màu đen, H. biết đây là ma túy Heroine và cầm ở tay phải. Đến đoạn đầu cầu Chương Dương, B. nói lái xe dừng lại để B. đi mua thuốc đau bụng nhưng thực tế B. đi vào nghĩa trang gần đó để sử dụng ma túy. H. và lái xe taxi vẫn ngồi trên xe. Sau khi sử dụng ma túy xong, số ma túy còn lại B. gói vào trong giấy bạc và để trong tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng. B. cất bơm kim tiêm vào trong quần lót phía trước bụng, tay trái cầm gói ma túy và lên xe ngồi tại ghế phụ phía trên cạnh lái xe và nói lái xe đi về Mỹ Đình. Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đi đến trước cổng trường THPT Chu Văn An (Số 10 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội) Tổ công tác Y28-141 Công an thành phố Hà Nội yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. B. đã dùng tay phải lấy bơm kim tiêm từ trong quần lót ra rồi đưa sang tay trái thả xuống vị trí khe giữa phanh tay của xe và ghế phụ, gói ma túy kẹp trong tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, B. thả khu vực sàn xe ở sau ghế phụ. H. vứt gói ma túy đang cầm ở tay phải xuống sàn xe phía sau ghế lái (trước vị trí H. ngồi). Quá trình kiểm tra, Lò Văn B. khai nhận 02 gói chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroine thu giữ trên xe ô tô là của B., bơm kim tiêm là dụng cụ để B. sử dụng ma túy. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật sau đó đưa B., H., lái xe cùng tang vật, phương tiện về Công an phường Thụy Khuê để giải quyết.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ của Lò Văn B.:

+ 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng bên trong có 01 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng;

+ 01 gói giấy bên ngoài được cuốn băng dính màu đen bên trong chứa chất bột màu trắng;

+ 01 bơm kim tiêm dài khoảng 10 cm đã qua sử dụng;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Kechdoda màu vàng đen;

+ Số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

- Thu giữ của Lò Văn H.:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng bị vỡ màn hình

+ Số tiền 40.000 đồng.

* Tại Kết luận giám định số 2403/KLGĐ-PC09 ngày 28/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự CA TP. Hà Nội xác định:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,079 gam.

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy ngoài cuốn băng dính màu đen là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,173 gam.

- 01 xi lanh nhựa có dính ma túy loại Heroine.

Ban đầu, B. khai nhận 02 gói ma túy và bơm kim tiêm là của B.. H. không nhận việc đi mua ma túy chung với B. để về cùng sử dụng.

Sau đó tại Cơ quan điều tra, Lò Văn B. và Lò Văn H. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Mục đích B. và H. tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Lời khai của các bị can phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

- Đối với người đàn ông bán ma túy cho B., xác minh số thuê bao và rà soát đối tượng nhưng không xác định được. Nên không có căn cứ để giải quyết.

- Đối với người lái xe taxi Nguyễn Vũ M.: M. khai không biết việc B., H. đi mua ma túy và tàng trữ ma túy tromg người. Lời khai của M. phù hợp với lời khai của các bị can. Quá trình xác minh tài sản thu giữ của Nguyễn Vũ M.. Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả tài sản cho chủ sở hữu tài sản và Nguyễn Vũ M..

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, H. khai là tài sản cá nhân của H.. Số tiền 40.000 đồng H. khai do lao động mà có.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Kechdoda màu vàng đen B. khai là tài sản cá nhân của B.. Số tiền 1.000.000 đồng, B. khai do đi cầm đồ chứng minh thư và thẻ ngân hàng mà có.

Tại bản cáo trạng số 109 /CT-VKS ngày 26 /6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Lò Văn B. và bị cáo Lò Văn H. phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa, đại diện VKSND quận Tây Hồ giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lò Văn B. đề nghị hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lò Văn B. từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 20 (hai mươi) tháng tù.

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lò Văn H. đề nghị hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lò Văn B. từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói giấy bạc bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,079 gam đã được niêm phong; 01 gói giấy ngoài cuốn băng dính màu đen bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,173 gam đã được niêm phong; 01 bơm kim tiêm nhựa đã được niêm phong;

Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Kechdoda màu vàng đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng bị vỡ màn hình. 

1.040.000 đồng (Một triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tại phiên tòa: Người bào chữa cho các bị cáó và các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân và độ tuổi của các bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo ở mức án thấp nhất để các bị cáo sớm có cơ hội quay trở lại đời sống xã hội.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Các bị cáo xác định có tội, đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận Tây Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, qua xét hỏi và tranh luận các bị cáo Lò Văn B. và Lò Văn H. khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của nhân chứng, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 19/3/2020 tại trước cổng trường THPT Chu Văn An (Số 10 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội), Lò Văn B., Lò Văn H. sau khi có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói giấy bạc bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,079 gam, 01 gói giấy cuốn băng dính màu đen bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,173 gam. Tổng khối lượng ma túy Heroine là 0,252 gam. Mục đích B. và H. tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác Tổ công tác Y28-141 Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn B. và bị cáo Lò Văn H. phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội danh và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo Lò Văn B. và bị cáo Lò Văn H. là nguy hiểm cho xã hội, ma tuý là một hiểm hoạ mà cả nhân loại đang ra sức loại trừ khỏi đời sống xã hội, nó làm ảnh hưởng tới sức khoẻ và kinh tế gia đình, làm huỷ hoại nhân cách con người và phát sinh nhiều tội phạm hình sự khác. Ma tuý là nguyên nhân lây lan căn bệnh HIV/AIDS vô phương cứu chữa.Vì nghiện hút nên bị cáo đã phạm tội, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết có tính chất răn đe và phòng ngừa chung.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án này: Cả hai bị cáo có vai trò như nhau. Với những phân tích trên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Lò Văn B. tại Bản án số 37/2014/HSST ngày 23 tháng 05 năm 2014 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, Lai Châu xử phạt 30 tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 06/5/2016 (đã được xóa án tích)

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ sau: Tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lò Văn H. phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại thời điểm bị cáo Lò Văn H. phạm tội thì do bị cáo sinh ngày 15/4/2002 (thời điểm phạm tội bị can 17 tuổi 11 tháng 04 ngày) nên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cần áp dụng Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đi với: 01 gói giấy bạc bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,079 gam đã được niêm phong; 01 gói giấy ngoài cuốn băng dính màu đen bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,173 gam đã được niêm phong; 01 bơm kim tiêm nhựa đã được niêm phong cần phải tịch thu tiêu hủy.

Đi với: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Kechdoda màu vàng đen; 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) cần áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự tịch thu sung công quỹ nhà nước. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng bị vỡ màn hình; 40.000 đồng (bốn mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Lò Văn H., do giá trị không lớn nên bị cáo đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn B. phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuyên bố bị cáo Lò Văn H. phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lò Văn B..

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lò Văn H.;

- Áp dụng Điều 329; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn B. 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 3 năm 2020.

Bị cáo Lò Văn H. 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 3 năm 2020.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 1.040.000 đồng theo biên bản giao nhận số 49/20099/BBBG-KBNN ngày 13 tháng 4 năm 2020 của kho bạc nhà nước quận Tây Hồ.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Kechdoda màu vàng đen đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng đã qua sử dụng bị vỡ màn hình.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy bạc bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,079 gam đã được niêm phong; 01 gói giấy ngoài cuốn băng dính màu đen bên trong là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,173 gam ; 01 bơm kim tiêm nhựa đã được niêm phong trong 01 bao niêm phong dán kín, tại các mép của bao niêm phong có chữ ký của Giám định viên, cán bộ CAP Thụy Khuê và Lò Văn B. đóng dấu đỏ của Cơ quan CSĐT CAQ Tây Hồ.

Số tang vật nêu trên hiện đang lưu giữ tại chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ theo biên bản giao vật chứng ngày 26/6/2020.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 92/2020/HSST ngày 14/07/2020 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:92/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;