Bản án về ly hôn, con chung số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, CON CHUNG 

Trong các ngày 14, 28 và ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

104/2022/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022 về việc Ly hôn, con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48a/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2022/QĐST-DS ngày 29/8/2022; Quyết định tạm ngừng phiên toà số 04/2022/QĐST-DS ngày 14/9/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị P H, sinh năm 1992.

HKTT: Khu x, xã T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay: Xóm x, xã Đ, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.

2. Bị đơn: Anh Đ T, sinh năm 1986.

HKTT: Khu x, xã T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Chị P H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Đ T có mặt ngày 14/9, vắng mặt không có lý do ngày 28, 30/9/2022).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 02/4/2022, bản tự khai ngày 22/6/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nguyên đơn Chị P H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T xây dựng gia đình với nhau năm 2012, hai bên làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh T tại xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn được khoảng gần ba năm, sau đó vợ chồng thuê nhà ở Hà Nội để sinh sống làm ăn, nhưng được khoảng hơn một năm vợ chồng lại chuyển về nhà bố mẹ đẻ Chị H tại xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Trong cuộc sống mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, đỉnh điểm mâu thuẫn trầm trọng là khoảng cuối năm 2020 đầu năm 2021, nguyên nhân chính là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sống, trong làm ăn kinh tế nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Bản thân anh T hay chơi bời không tập trung làm ăn cho gia đình, nhiều lần Chị H với gia đình nhà chồng cũng có khuyên bảo nhưng anh T không có sự thay đổi nào. Chính vì cuộc sống gia đình căng thẳng nên vợ chồng ly thân từ khoảng đầu năm 2021 đến nay mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến nhau, Chị H ở chung với bố mẹ tại xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Nay Chị H xác định tình cảm với anh T không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị P H trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Đinh Tuấn Lâm, sinh ngày 05/12/2012 và cháu Đinh Tuấn Khang, sinh ngày 11/6/2017. Các con chung trước đây đều ở với Chị H và ông bà ngoại tại tỉnh Hà Nam, tuy nhiên khi vợ chồng mâu thuẫn anh T có thuê nhà trọ ở Hà Nam để ra ở riêng, đến khoảng năm 2021 anh T có đến gia đình gây sự với bố mẹ chị, đưa con đi ra ngoài ở cùng phòng trọ với anh T, không cho con chung ở cùng với Chị H và ông bà ngoại. Chị H lo các con chung sẽ ảnh hưởng tâm lý, việc học hành nên Chị H đã quyết định gửi hai con chung về cho bố mẹ anh T tại xã Thục Luyện để nuôi dưỡng. Chị H thỉnh thoảng vẫn về thăm con chung, hàng tháng Chị H đều gửi tiền về để ông bà nuôi cháu, đóng tiền học. Ly hôn nguyện vọng Chị H xin được nuôi hai con chung đến khi thành niên, nếu không được như nguyện vọng thì chị xin được nuôi cháu Đinh Tuấn Khang đến khi thành niên, còn cháu Đinh Tuấn Lâm chị đồng ý để anh T nuôi dưỡng, chị tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Chị H hiện nay làm công nhân tại KCN 4 Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, thu nhập hàng tháng khoảng 6 -7 triệu, chị ở chung với bố mẹ đẻ có nhà cửa kiên cố, ổn định, từ nhà đến chỗ làm khoảng 2km, Chị H làm giờ hành chính không phải làm ca đêm, tối về ăn ngủ tại nhà.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị P H trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn anh Đ T: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa án. Ngày 04/8/2022 Tòa án phối hợp với chính quyền địa phương, khu hành chính đến nhà anh T để làm việc, tại gia đình anh T có mặt ở nhà nhưng không hợp tác với Tòa án nên Tòa án đã lập biên bản về việc anh T không hợp tác làm việc, với sự có mặt của Trưởng khu hành chính. Ngày 10/8/2022 anh T và Chị H có đến Tòa án để làm việc, tại Tòa án sau khi được Thẩm phán giới thiệu, giải thích và phổ biến quyền và nghĩa vụ cho các đương sự nhưng anh T chỉ trình bày với Tòa án về quan hệ hôn nhân với Chị H chứ anh T không viết bản tự khai, Tòa án lập biên bản lấy lời khai sau đó thông qua biên bản nhưng anh T không ký vào biên bản, vì vậy Tòa án đã lập biên bản và mời Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát vụ án ly hôn giữa Chị H và anh T đến để chứng kiến việc anh T không hợp tác làm việc. Tại phiên toà ngày 14/9/2022 anh Đ T có mặt và trình bày: Năm 2012 anh T và Chị H xây dựng gia đình với nhau, hai bên được tự do tìm hiểu tự nguyện và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn. Hai gia đình có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sinh sống cùng với bố mẹ đẻ anh tại xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn được khoảng gần ba năm, sau đó vợ chồng lại chuyển xuống Hà Nội thuê nhà ở để làm ăn, tiện cho công việc. Được một thời gian thì vợ chồng lại chuyển về quê nhà Chị H ở xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam để ở. Theo anh T thì vợ chồng đi lại ở nhiều nơi, không cố định một chỗ nào. Trong cuộc sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do kinh tế gia đình chi phối, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, ai cũng cố chấp, không tôn trọng nhau, vợ chồng không tin tưởng, tình cảm đối với nhau ngày càng lạnh nhạt. Chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đầu năm 2021 đến nay không chung sống với anh T nữa, vợ chồng sống ly thân ít liên lạc với nhau, nếu có liên lạc cũng chỉ hỏi thăm con cái chứ không nói chuyện gì với nhau. Chị H có đơn ly hôn quan điểm anh T muốn kéo dài thời gian để cải thiện quan hệ vợ chồng, anh chưa muốn ly hôn. Về con chung anh T trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Đinh Tuấn Lâm, sinh ngày 05/12/2012 và cháu Đinh Tuấn Khang, sinh ngày 11/6/2017, hiện hai con chung đang ở với bố mẹ đẻ anh tại xã Thục Luyện, anh T đi làm suốt nên nhờ bố mẹ chăm sóc. Nếu ly hôn thì ai nuôi con cũng được nhưng ai nuôi con thì nuôi cả hai con chung vì anh không muốn các con phải mỗi người một nơi, nếu được nuôi con anh T không yêu cầu cấp dưỡng, anh T hiện nay làm lao động tự do có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Về tài sản chung, nợ chung anh T trình bày vợ chồng không có gì.Tuy nhiên, anh T trình bày vợ chồng có khoản tiền gửi tiết kiệm do Chị H quản lý, số tiền bao nhiêu và gửi ở ngân hàng nào thì anh T không biết.

Do anh T chưa có mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nên anh T đề nghị tạm ngừng phiên toà để anh cung cấp tài liệu chứng cứ để đảm bảo quyền lợi của anh. Tuy nhiên, anh T không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn ghi ngày 19/8/2022 và ngày 28/9/2022. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần, anh T có đến Tòa án nhưng không hợp tác làm việc, khi mở lại phiên tòa anh T vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị P H, xử cho Chị H được ly hôn anh Đ T. Về con chung: Giao con chung là cháu Đinh Tuấn Khang, sinh ngày 11/6/2017 cho Chị H được trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là cháu Đinh Tuấn Lâm, sinh ngày 05/12/2012 cho anh Đ T được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Chị P H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 17/6/2022 Chị P H nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn đối với anh Đ T, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn Chị P H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 19/8/2022 và ngày 28/9/2022. Tại phiên toà ngày 14/9/2022 anh Đ T có mặt, phiên toà được tạm ngừng và mở lại vào ngày 30/9/2022, tại phiên toà hôm nay anh T vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị P H và anh Đ T đăng ký kết hôn năm 2012 tại UBND xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với gia đình bố mẹ anh T một thời gian, sau đó vợ chồng đi làm thuê, ở dưới nhà bố mẹ Chị H, vợ chồng đi lại cả hai bên nội ngoại. Trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân chính là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không cùng nhau có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không tin tưởng nhau và thường xuyên xẩy ra cãi nhau. Bản thân anh T thì mải chơi, không tập trung làm ăn kinh tế gia đình, cũng theo biên bản xác minh của Công an xã Thục Luyện thì anh T đã có hai lần bị kết án. Kết quả xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại địa phương cũng xác định vợ chồng Chị H và anh T có mâu thuẫn, thực tế hôn nhân của anh chị đã không hạnh phúc với nhau một thời gian dài. Về phía anh T muốn Tòa án để tạo điều kiện cho hai bên hòa giải đoàn tụ nhưng không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ vợ chồng. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình trạng hôn nhân giữa Chị H và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, giữa Chị H và anh T một thời gian dài không thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau. Việc Chị H xin ly hôn với anh T là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị P H và anh Đ T có 02 con chung là cháu Đinh Tuấn Lâm, sinh ngày 05/12/2012 và cháu Đinh Tuấn Khang, sinh ngày 11/6/2017. Khi ly hôn nguyện vọng của Chị H xin được nuôi hai con chung, nếu không được thì chị xin được nuôi một con chung là cháu Đinh Tuấn Khang đến khi cháu thành niên, chị tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, đối với cháu Đinh Tuấn Lâm chị đồng ý để anh T nuôi dưỡng. anh T đề nghị ai nuôi con chung thì nuôi cả hai con. Hội đồng xét xử thấy rằng: Trước đây các con chung ở với Chị H và bố mẹ chị ở Hà Nam, tuy nhiên khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra anh T có đến nhà chị gây sự, đưa con đi ra ngoài thuê nhà ở cùng, Chị H sợ ảnh hưởng đến tâm lý, việc học hành con chung nên đã gửi các cháu về nhờ ông bà nội chăm sóc. Hàng tháng Chị H vẫn về thăm con chung và chu cấp tiền để ông bà nuôi cháu, điều đó thể hiện Chị H có trách nhiệm với con chung. Hiện nay Chị H đang làm công nhân gần nhà có thu nhập ổn định, chị ở chung với bố mẹ có chỗ ở ổn định. Tại bản tự khai của cháu Lâm ngày 10/8/2022 nguyện vọng của cháu xin được ở với bố, Chị H cũng nhất trí với quan điểm của cháu Lâm, hiện nay cháu cũng đang ở với anh T và ông bà nội, được anh và ông bà chăm sóc, học hành đầy đủ, anh đi làm có thu nhập, có thời gian về thăm con chung. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho con chung, các cháu có điều kiện tốt nhất để học hành và phát triển toàn diện cần giao cho anh chị mỗi người có trách nhiệm nuôi một con chung, cụ thể Chị H được trực tiếp nuôi cháu Đinh Tuấn Khang đến khi thành niên, anh T được trực tiếp nuôi cháu Đinh Tuấn Lâm đến khi cháu thành niên, anh T và Chị H không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với thực tế, phù hợp với nguyện vọng của con chung và phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức, tư trang riêng: Chị P H xác định không có, ly hôn chị không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Đ T xác định vợ chồng có khoản tiền gửi tiết kiệm nhưng không biết cụ thể bao nhiêu tiền và gửi ở đâu, không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xem xét, giải quyết.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị P H phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị P H đối với anh Đ T. Xử cho Chị P H được ly hôn anh Đ T.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Đinh Tuấn Khang, sinh ngày 11/6/2017 cho Chị P H được trực tiếp nuôi dưỡng; Giao con chung là cháu Đinh Tuấn Lâm, sinh ngày 05/12/2012 cho anh Đ T được trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 10 năm 2022 cho đến khi các con chung thành niên. Chị H và anh T không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn Chị P H và anh Đ T đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị P H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận Chị H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0006850 ngày 20/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự." 4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, con chung số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;