Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2021/TLST-HS ngày 22/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2021/QĐXXST-HS ngày 13/7/2021 đối với bị cáo:

Trịnh Thị T, sinh năm 1973 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Tổ 2, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; có chồng là Nguyễn Thanh P, sinh năm 1969 (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1994; tiền án: Ngày 22/11/2012, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 13 năm tù về các tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” “Tàng trữ các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/7/2020; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 02/04/2021, tạm giam từ ngày 08/04/2021 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Phạm Thị Hồng B, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 40, đường B, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Đỗ Văn H, sinh năm 2002; vắng mặt.

2. Chị Lê Thị T, sinh năm 1989; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 02/04/2021, Trịnh Thị T đang làm việc tại khách sạn Thanh Hà thuộc tổ dân phố Mễ Nội, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý thì nhận được cuộc điện thoại số thuê bao 0945.801767 của một người nam giới (T không biết rõ nhân thân, lai lịch) gọi vào số thuê bao 0915.882.873 của T và nói:“Chị ơi để cho em quả bốn trăm”, hiểu ý người nam giới hỏi mua ma túy nên T trả lời: “Em đang ở đâu, tý chị mang ra cho” thì người này trả lời: “Em đang ở gầm cầu Liêm Chính”. Sau đó T điều khiển xe máy biển kiểm soát: 90B2-426.93 đi đến khu vực cầu Châu Sơn thuộc tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý gặp một nam thanh niên khoảng 30 tuổi (T không biết rõ lai lịch, địa chỉ), T nói:“Em để cho chị quả ba trăm rưỡi” rồi lấy ra số tiền 350.000 đồng đưa cho người này. Người thanh niên cầm tiền của T rồi đưa lại 01 gói giấy bạc màu trắng. Biết đó là gói ma túy, T cầm lấy giữ trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy đi về cầu Liêm Chính tìm người nam giới trước đó đã gọi điện thoại cho T bán gói ma túy vừa mua được để kiếm lời. Khi đi đến khu vực cầu Liêm Chính thuộc tổ dân phố Mễ Nội, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý thì T bị tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý yêu cầu dừng xe để kiểm tra, T đã thả gói giấy bạc từ trong lòng bàn tay trái xuống mặt đường nhưng bị lực lượng Công an phát hiện nên đã yêu cầu T nhặt lên và mở ra để kiểm tra thì thấy bên trong gói giấy bạc có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ, T khai nhận đó là ma túy, cất giấu với mục đích là để bán lại cho người khác kiếm lời.

Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01;

01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen; 01 giấy phép lái xe hạng A1 và 01 giấy chứng minh nhân dân đều mang tên Trịnh Thị T; 01 xe máy biển kiểm soát: 90B2-426.93; 01giấy chứng nhận đăng ký môtô, xe máy mang tên Phạm Thị Hồng B và số tiền 1.600.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số 56/PC09-MT ngày 06/04/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,221 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 110/CT-VKS-PL ngày 21/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trịnh Thị T về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Trịnh Thị T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 35; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Trịnh Thị T từ 42 tháng đến 48 tháng tù.

- Phạt tiền bị cáo từ 03 đến 05 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng; kết luận giám định về chất ma túy; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng; lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 02/04/2021, tại khu vực tổ dân phố Mễ Nội, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Trịnh Thị T bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,221 gam chất ma túy loại Heroine, mục đích để mang bán kiếm lời, thu lợi bất chính. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do đã bị kết án về các tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” đều chưa được xóa án tích.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án về tội phạm ma túy, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có người thân (bố đẻ) là người có công (thương binh hạng 3/4, thương tật 55%; được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhì) nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động mua, bán, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo là người đã bị kết án về tội phạm ma túy, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý đã thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với mục đích vụ lợi, kiếm lời bất chính. Do vậy, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo bằng hình thức phạt tiền là cần thiết, nhằm răn đe, giáo dục chung.

[6] Đối với người thanh niên khoảng 30 tuổi theo bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực cầu Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, do quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để xác minh, làm rõ nhưng không xác định được đặc điểm, nhân thân, lai lịch, địa chỉ của người này, ngoài lời khai duy nhất của bị cáo không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh nên không có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

Đối với người thanh niên đã sử dụng số điện thoại 0945.801767 để gọi, hỏi mua ma túy của bị cáo ngày 02/04/2021, quá trình điều tra đã xác định số điện thoại nêu trên có chủ thuê bao là bà Đỗ Thị Thoa ở Hưng Công, Bình Lục, Hà Nam. Do bà Thoa xác định không đăng ký, sử dụng số điện thoại này và không quen biết đối với Trịnh Thị Tuyết nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để xác định rõ và xem xét, xử lý đối với người đã sử dụng số điện thoại nêu trên là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng của vụ án:

+ Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 90B2-426.93 và giấy chứng nhận đăng ký của chiếc xe, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của chị Phạm Thị Hồng B (con dâu bị cáo). Khi giao xe cho bị cáo quản lý, chị B đã không biết bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện để thực hiện tội phạm. Quá trình điều tra chị B đã có đơn đề nghị xin được nhận lại chiếc xe và giấy tờ đăng ký của chiếc xe để sử dụng nên sẽ trả lại những tài sản này cho chị B.

+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, được bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên sẽ tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với số tiền 1.600.000 đồng thu giữ của bị cáo, 01 giấy phép lái xe hạng A1 và 01 giấy chứng minh nhân dân đều mang tên Trịnh Thị T, quá trình điều tra đã xác định là tài sản, giấy tờ hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.

+ Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 5 Điều 251; Điều 35, Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Trịnh Thị T phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 02/04/2021.

- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Trịnh Thị T 5.000.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Trịnh Thị T 01 (mt) giấy chứng minh nhân dân số: 168263701 và 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số: 351047001319 đều mang tên Trịnh Thị T; số tiền 1.600.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho chị Phạm Thị Hồng B 01 (một) xe máy biển kiểm soát: 90B2- 426.93, số máy: JA38E0021059, số khung: 3823GY007075 (đã cũ qua sử dụng) 01 (mt) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy số: 074338.

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 01 (mt) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen (đã cũ qua sử dụng), số IMEI1: 351864453146767, số IMEI2: 355795643146760.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi:“Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 56/PC09-MT có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 23/6/2021 và Ủy nhiệm chi số 56 lập ngày 30/6/2021.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trịnh Thị T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;