Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM ĐỘNG, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2022/TLST-HS ngày 18/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HS ngày 07/02/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐHS-ST ngày 18/02/2022 đối với:

Bị cáo Dương Quang T, sinh năm 1981, nơi đăng ký HKTT: Số 10, phố V, phường V, quận H, Thành phố Hà Nội, nơi ở hiện nay: số 31, ngõ 49/66, phố T, phường L, quận H, Thành phố Hà Nội; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông: Dương Quang T và bà Nghiêm Thúy L; vợ: Nguyễn Hồng N (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2011. Tiền sự: không. Tiền án: Ngày 09/9/2020 bị Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” thời hạn tính từ ngày 03/6/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/9/2021, chuyển tạm giam từ ngày 29/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1982 (vắng mặt) Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên.

+ Anh Đào Đức C, sinh năm 1981 (vắng mặt);

+ Anh Đào Văn H, sinh năm 1983 (vắng mặt); Đều trú tại: thôn Đ, xã V, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 50 phút ngày 23/9/2021, tại thôn Đào Xá, xã Vĩnh Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, Tổ công tác Công an huyện Kim Động phát hiện đối tượng Dương Quang T điều khiển xe mô tô biển số 19L6-4582 chở Nguyễn Văn M, sinh năm 1982, ở thôn 4, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội, có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Công an đã thu giữ trong mũ T đang đội trên đầu 01 gói nilon màu trắng có kích thước (5x5)cm chứa chất kết tinh màu trắng dạng hạt và bột, T khai nhận là ma túy. Công an huyện Kim Động đã lập biên bản thu giữ và niêm phong ký hiệu A1. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của đối tượng M 01 gói nilon có chứa chất kết tinh màu trắng dạng hạt, M khai nhận là ma túy.

Quá trình điều tra, T khai nhận: Khoảng đầu giờ chiều ngày 23/9/2021, T điều khiển xe mô tô, biển số 19L6-4582 đi đến khu vực thuộc phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể tự gới thiệu là “Còi”. T nhìn người này giống người nghiện ma túy nên hỏi mua 4.000.000 đồng tiền ma túy với mục đích để sử dụng. “Còi” đồng ý và đưa cho T 01 gói nilon màu trắng có kích thước (5x5)cm chứa ma túy. T kiểm tra đúng là ma túy thì cất vào túi quần đang mặc rồi đi về. Đến hồi 15 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển số 19L6 - 4582 đến xã Đ, huyện G, Thành phố Hà Nội đón M để nhờ M chỉ đường đi đến cầu Bắc Hưng Hải ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Khi đến cầu Bắc Hưng Hải, do trời mưa to nên T dừng xe lại cất 01 gói ma túy mua của “Còi” vào trong mũ lưỡi trai, sau đó cùng M tiếp tục đi về Hưng Yên. Đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô chở M ngồi sau đi đến địa phận thuộc thôn Đào Xá, xã Vĩnh Xá, huyện Kim Động thì bị Công an bắt quả tang.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Kim Động (dưới đây viết tắt là: Cơ quan điều tra) đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Dương Quang T, tuy nhiên không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì.

Tại: bản Kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 27/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yờn, kết luận Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ghi ký hiệu A1 có tổng khối lượng là 8,032 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn lại 7,869 gam ma túy, loại Methamphetamine sau giám định.

Đối với gói ma túy Cơ quan điều tra thu giữ của M thì T khai không biết M cất giấu trong người 01 gói ma túy và M khai nhận cũng không biết T có cất giấu trong người 01 gói ma túy.

Đối với Nguyễn Văn M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. M đi cùng với T và đều bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng M không biết T tàng trữ chất ma túy, T cũng không biết M tàng trữ ma túy. Ngày 12/01/2022, M đã bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, xét xử 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho T ngày 23/9/2021, do T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của đối tượng trên nên không có căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ: 7,869 gam ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì là mẫu vật hoàn lại sau giám định ghi số 285/MT-PC09; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius có biển số 19L6-4582.

Cáo trạng số 05/CT-VKSKĐ ngày 17/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Động đã truy tố Dương Quang T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Động trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Dương Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị HĐXX: áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Dương Quang T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Dương Quang T từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/9/2021.

Về vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 7,869 gam ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Trả lại Dương Quang T 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius, biển số 19L6-4582.

Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Động và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, Bản kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngµy 27/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, lời khai của những người chứng kiến, người làm chứng, các vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 00 ngày 23/9/2021, T điều khiển xe mô tô, biển số 19L6-4582 đi đến khu vực thuộc phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể để mua 4.000.000 đồng tiền ma túy, sau đó T đi cùng Nguyễn Văn M về khu vực thôn Đào Xá, xã Vĩnh Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên thì bị Công an huyện Kim Động bắt giữ T và thu giữ 8,032 gam (m phảy không ba hai gam) ma túy, loại Methamphetamine, số ma túy này T tàng trữ với mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo M đã có đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Động truy tố bị cáo T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đối với Nguyễn Văn M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. M và T không biết về số ma túy đã mua và cất giấu của nhau. Hành vi phạm tội của T và M độc lập với nhau nên ngày 12/01/2022, M đã bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, xét xử 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho T ngày 23/9/2021, do T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của đối tượng trên nên không có căn cứ xác minh, làm rõ để xử lý là có căn cứ theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã thành niên nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên biết rất rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, là nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội khác, đe dọa nghiêm trọng đến trật tự công cộng, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, nhưng để thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đồng thời để làm bài học ngăn ngừa tội phạm chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, ngoài ra bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ nào khác.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: ngày 09/9/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích nay bị cáo tiếp tục phạm tội, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu.

[6] Về hình phạt: căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định và không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 7,869 gam ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì là mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên sẽ tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius có biển số 19L6- 4582, qua điều tra và xác minh có căn cứ xác định đây là tài sản hợp pháp của Dương Quang T không liên quan đến tội phạm hoặc do phạm tội mà có, do đó trả lại cho bị cáo T.

[9] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Dương Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Dương Quang T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 23/9/2021.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 7,869 gam ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Trả lại ngay cho bị cáo Dương Quang T 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại Sirius màu sơn trắng đen có biển số 19L6-4582.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng nêu trên được thể hiện theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/01/2022 giữa Công an huyện Kim Động và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Động).

Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Động - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;