Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy về 28/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 28/2021/HSST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Trong ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2021/TLST-HS ngày 17/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HS ngày 15/7/2021, đối với các bị cáo:

1/ Phạm Văn Q, sinh năm 1982 tại tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn 15, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Ph và bà Bùi Thị M (đều đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/03/2021. Có mặt.

2/ Ngô Bá Th (Ngô Bá T), sinh năm 1989 tại tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn 15, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Bá Nh, sinh năm: 1946 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1948; vợ Trịnh Thị Ph, sinh năm 1991 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2010; tiền án: Ngày 25/12/2019, bị TAND tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số: 128/2019/HSPT, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/02/2021, chấp hành xong nghĩa vụ nộp án phí ngày 05/03/2020; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/03/2021. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Ngô Bá Nh, sinh năm 1946. Địa chỉ: Thôn 15, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông. Có mặt

2/ Bà Cao Thị V, sinh năm 1972; Địa chỉ: Thôn 7, xã E, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt

3/ Bà Trương Bảo Ph, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn 15, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 10/03/2021, Phạm Văn Q gặp Ngô Bá Th tại ngã tư chợ Buôn U thuộc thôn 14, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông, biết Th là người nghiện ma túy nên Q rủ Th góp tiền mua ma tuý loại Heroin về sử dụng chung thì Th đồng ý. Sau đó, Q đi gửi xe máy tại nhà của ông Phạm Ngọc L ở gần đó và được Th dùng xe môtô BKS: 48D1 – xxx.61 chở lên khu vực cầu 14, xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để mua ma tuý. Trên đường đi, Th và Q bàn bạc mua 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) ma túy, Th góp số tiền 150.000đ, Q góp 350.000đ, do Q chỉ có 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ, nên đã đưa cho Th để góp mua ma túy rồi nhận lại số tiền 150.000đ từ Th và cất vào trong người. Khi đến khu vực xã H thành phố Buôn Ma Thuột, Th gọi điện thoại cho Trần Q (tên thường gọi là B) hỏi mua ma túy thì Q không nghe máy. Th và Q đi vào nhà gặp Q và hỏi mua 500.000đ ma tuý loại Heroine nhưng không có. Th tiếp tục chở Q đi ra ngã ba buôn K thuộc xã H, thành phố Buôn Ma Thuột gặp một người nam thanh niên (chưa rõ nhân thân lai lịch), người này chủ động hỏi Th và Q là có việc gì không, Th hỏi lại là có biết nơi nào bán ma tuý mua giúp 500.000đ, người nam thanh niên này đồng ý. Th đưa tiền cho người nam thanh niên, nhận tiền xong người này bỏ đi khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho Th 01 gói giấy bạc màu trắng rồi bỏ đi. Th và Q tin đây là gói ma tuý loại Heroine, Th đưa gói ma tuý cho Q cất giữ rồi chở nhau đi đến vườn trồng cây Cà phê và Điều thuộc Buôn T, xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để sử dụng ma túy. Tại đây, Q lấy gói ma tuý vừa mua được cùng với Th sử dụng dưới hình thức chích vào cơ thể. Sau khi sử dụng ma tuý xong, Q nói với Th là còn dư một ít ma túy, Th nói Q cất đi về để sử dụng cho bản thân thì Q đồng ý và gói phần ma tuý còn dư trong giấy bạc màu trắng sáng rồi để trong bao thuốc lá WAR HORSE, cất vào trong túi quần vải bên phải phía trước mà Q đang mặc. Sau đó, Th chở Q về nhà ông L rồi Th đi về trước còn Q vào nhà ông L lấy xe máy BKS: 48AB-xxx.55 đi về hướng thôn 15, xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông; khi Q đi đến đoạn đường bê tông thuộc Bon U, xã Đ cách nhà ông L khoảng 175m thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện Cư Jút phối hợp với Công an xã Đ dừng xe kiểm tra, quá trình kiểm tra Công an phát hiện Q đang tàng trữ 01 gói nhỏ bên ngoài bọc giấy bạc màu trắng sáng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy loại Heroine được để trong túi quần phía trước bên phải đang mặc, 01 vỏ bao thuốc lá WAR HORSE bên trong có chứa 11 điếu thuốc lá đầu lọc. Sau đó, Công an huyện Cư Jút lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các vật chứng có liên quan.

Sau khi bị bắt giữ, Q khai nhận gói chứa chất bột màu trắng bị thu giữ là ma tuý, loại Heroine, do Q đã góp tiền với Th mua để sử dụng. Công an huyện Cư Jút triệu tập Th đến Công an xã Đ làm việc và Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi góp tiền cùng Q mua ma tuý, loại Heroin. Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Th.

Vật chứng:

- 01(một) gói nhỏ bên ngoài bọc giấy bạc màu trắng sáng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Heroine được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, Liễu Văn T, Nông Văn L dấu tròn đỏ của Công an xã Đ.

- 01 (một) bao thuốc lá WAR HORSE (bên trong còn 11 điếu thuốc chưa sử dụng) cất trong túi quần vải bên phải phía trước mà Q đang mặc. Được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, Liễu Văn T, Nông Văn L và dấu tròn đỏ của Công an xã Đ, huyện Cư Jút.

- 01 (một) xe máy BKS: 48AB-xxx.55.

- 01 (một) xe môtô BKS: 48D1-xxx.61.

- 01 (một) điện thoại di động IPHONE 6S PLUS vỏ mặt sau màu hồng.

- 02 (hai) bơm kim tiêm loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01 vỏ thủy tinh loại chứa nước cất đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của các bị cáo Q, Th, Đoàn Văn K và dấu tròn đỏ của Công an xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, thu giữ tại địa điểm sử dụng ma túy.

- 150.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; trong đó gồm 01 tờ tiền mệnh giá 50.000đ, 03 tờ tiền mệnh giá 20.000đ và 04 tờ tiền mệnh giá 10.000đ, do Q giao nộp.

Tại kết luận giám định số: 39/KLMT-PC09 ngày 15/03/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong trong phong bì thư gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,1041 gam; là Heroine. Hoàn lại đối tượng sau giám định 0,0707 gam.

Bản Cáo trạng số: 30/CTr-VKS ngày 17/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút truy tố các bị cáo Phạm Văn Q và Ngô Bá Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa các bị cáo Q và Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Tuyên bố các các bị cáo Phạm Văn Q và Ngô Bá Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về trách nhiệm hình sự:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị tuyên phạt bị cáo Phạm Văn Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS. Đề nghị tuyên phạt bị cáo Ngô Bá Th từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 46, Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS).

Đề nghị chấp nhận: Quyết định xử lý vật chứng số: 30 ngày 23/4/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút trả lại cho bà Cao Thị V xe máy BKS: 48AB- xxx.55; trả lại cho ông Ngô Bá Nh xe môtô BKS: 48D1-xxx.61 và điện thoại di động IPHONE 6S PLUS vỏ mặt sau màu hồng.

Đề nghị Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

+ Chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng mẫu là 0,0707 gam. Chất rắn màu trắng trên được đựng trong 01 gói Zipper chỉ đỏ có kích thước (4x6)cm, gói Zipper và gói giấy bạc đựng mẫu gửi giám định để vào 01 bì thư có kích thước (11x17)cm, mặt trước bì thư có ký hiệu 39/PC09 và ghi mẫu hoàn trả; mặt sau bì thư được dán kín, có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông.

+ 01 (một) bao thuốc lá WAR HORSE (bên trong còn 11 điếu thuốc chưa sử dụng). Được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, Liễu Văn T, Nông Văn L và dấu tròn đỏ của Công an xã Đ, huyện Cư Jút.

+ 02 (hai) bơm kim tiêm loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01 vỏ thủy tinh loại chứa nước cất đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, Ngô Bá Th, Đoàn Văn K và dấu tròn đỏ của Công an xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 150.000đ của Q để đảm bảo thi hành án.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì. Các bị cáo không bào chữa và cũng không tranh luận gì thêm mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cư Jút, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với hành vi của các bị cáo:

HĐXX thấy rằng, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Kết luận giám định và toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác có lưu trong hồ sơ vụ án. Vì vậy HĐXX có đủ căn cứ để kết luận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, vào khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 10/03/2021 các bị cáo Q và Th (đều là những người nghiện ma túy) đã cùng nhau góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng. bị cáo Th góp 150.000 đồng, bị cáo Q góp 350.000 đồng để mua ma túy là Heroine. Hành vi của các bị cáo Q và Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…………………..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

…………………”

[3]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự công cộng và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển lành mạnh của xã hội. Mặt khác ma túy còn là một trong những nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác. Bản thân các bị cáo nhận thức được heroine là chất gây nghiện nguy hiểm, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng để có ma túy sử dụng nhằm thỏa mãn cho nhu cầu bất chính của bản thân, các bị cáo vẫn cố ý phạm tội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Th bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 128/2019/HSPT ngày 25/12/2019, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/02/2021, chấp hành xong nghĩa vụ nộp án phí ngày 05/03/2020, chưa được xóa án tích, bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Về nhân thân các bị cáo:

- Đối với bị cáo Q: Bị cáo có nhân thân xấu, thể hiện năm 2014 bị Công an huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quyết định số 156 ngày 07/11/2014, đã nộp phạt ngày 14/11/2014; Ngày 10/01/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong quyết định ngày 28/9/2019.

- Đối với bị cáo Th: Bị cáo có nhân thân xấu, vào năm 2005 bị cáo bị chủ tịch UBND huyện Cư Jút ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “Trộm cắp tài sản” với thời hạn 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 25/12/2007. Ngày 28/5/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 19/2013/HSST ngày 28/5/2013, đã được xóa án tích.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Q là người chủ động rủ rê bị cáo Th góp tiền mua ma túy, nhưng nhân thân bị cáo Th xấu hơn và thuộc trường hợp tái phạm, do đó HĐXX đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo là ngang nhau, và cần áp dụng hình phạt tù giam đối với các bị cáo để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên kết quả xác minh thể hiện, các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Qua điều tra xác định được xe máy BKS: 48AB-xxx.55 là của bà Cao Thị V cho bà Trương Bảo Ph mượn để làm phương tiện đi lại, ngày 10/03/2021, bà Ph cho Q mượn xe để đi rẫy, sau đó Q dùng xe này thực hiện tội phạm thì bà V và bà Ph không biết. Xe môtô BKS: 48D1- xxx.61 và điện thoại di động IPHONE 6S PLUS vỏ mặt sau màu hồng là của ông Ngô Bá Nh để tại nhà, Th tự ý lấy sử dụng và thực hiện hành vi phạm tội ông Nh không biết, nên chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả tài sản trên cho chủ sỡ hữu.

- Đối với chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng mẫu là 0,0707 gam; 01 (một) bao thuốc lá WAR HORSE (bên trong còn 11 điếu thuốc chưa sử dụng); 02 (hai) bơm kim tiêm loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01(một) vỏ thủy tinh loại chứa nước cất đã qua sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định BLTTHS.

- Đối với số tiền số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) không sử dụng vào mục đích phạm tội, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6]. Đối với hành vi bà V cho bà Ph mượn xe máy BKS: 48AB-xxx.55 để làm phương tiện đi lại, sau đó bà Ph cho bị cáo Q mượn xe máy BKS: 48AB-xxx.55, tuy nhiên cả bà V và bà Ph đều không biết Q sử dụng xe máy thực hiện hành vi phạm tội, nên không có căn cứ xử lý.

Đối với ông Nh để xe mô tô BKS: 48D1-xxx.61 và điện thoại di động IPHONE 6S PLUS tại nhà, Th tự ý lấy sử dụng và thực hiện hành vi phạm tội, ông Nh không biết nên không có căn cứ xử lý.

Đối với người nam thanh niên chưa rõ nhân thân, lai lịch có hành vi bán ma túy trái phép cho Q và Th; Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút đang tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với việc các bị cáo khai nhận liên hệ với người tên B để hỏi mua ma túy vào ngày 10/03/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút phối hợp với Công an xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xác minh tại thôn 02, xã H có một người tên thường gọi là B, tên thật là Trần Q, sinh năm 1989. Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút đã triệu tập Trần Q lên lấy lời khai và thừa nhận ngày 10/03/2021 các bị cáo có đến nhà gặp Trần Q để hỏi mua ma túy, nhưng Q không có ma túy để bán cho các bị cáo, nên không có căn cứ để xử lý.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn Q và Ngô Bá Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 02 (hai) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 10/03/2021.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Ngô Bá Th 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 10/03/2021 3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận: Quyết định xử lý vật chứng số 30 ngày 23/4/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút, trả lại bà Cao Thị V xe máy BKS 48AB-xxx.55; trả lại ông Ngô Bá Nh xe môtô BKS 48D1-xxx.61 và điện thoại di động IPHONE 6S PLUS vỏ mặt sau màu hồng.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

+ Chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng mẫu là 0,0707 gam. Chất rắn màu trắng trên được đựng trong 01 gói Zipper chỉ đỏ có kích thước (4x6)cm, gói Zipper và gói giấy bạc đựng mẫu gửi giám định để vào 01 bì thư có kích thước (11x17)cm, mặt trước bì thư có ký hiệu 39/PC09 và ghi mẫu hoàn trả; mặt sau bì thư được dán kín, có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông.

+ 01 (một) bao thuốc lá WAR HORSE (bên trong còn 11 điếu thuốc chưa sử dụng). Được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, Liễu Văn T, Nông Văn L và dấu tròn đỏ của Công an xã Đ, huyện C, tỉnh Đắk Nông.

+ 02 (hai) bơm kim tiêm loại 03ml/cc đã qua sử dụng và 01 (một) vỏ thủy tinh loại chứa nước cất đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Q, Ngô Bá Th, Đoàn Văn K và dấu tròn đỏ của Công an xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

(Đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện với Chi cục Thi hành án dân sự huyện ngày 21/6/2021).

Tạm giữ số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) của bị cáo Phạm Văn Q để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Phạm Văn Q và Ngô Bá Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Các bị cáo Phạm Văn Q và Ngô Bá Th và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy về 28/2021/HSST

Số hiệu:28/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;