Không ít người thắc mắc, liệu có được trang bị cho mình "vũ khí" để tự vệ, nhất là khi ngày càng nhiều các vụ cướp giật, giết người cướp tài sản diễn ra gần đây. Vậy thì pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Đi kèm với sự phát triển của một đất nước về kinh tế, chính trị và xã hội là ngày càng nhiều các tệ nạn xảy ra. Buổi sáng, lướt sơ qua các trang báo tin tức không thể không thấy, nào là trộm cắp, cướp giật, giết người cướp tài sản, điển hình trong thời gian gần đây nhất là vụ nữ sinh đại học đi xem thi bị tài xế taxi giết rồi cướp tài sản. Và chắc hẳn ai cũng muốn trang bị cho mình một thứ gì đó để phòng thân. Nhưng đừng dại kẻo vi phạm pháp luật!
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định, nghiêm cấm cá nhân sở hữu vũ khí trừ vũ khí thô sơ gồm các loại dao găm, kiếm, giáo, mác, lưỡi lê, đao, mã tấu, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ (Khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh 16/2011/UBTVQH12). Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp cá nhân đều có quyền sở hữu vũ khí thô sơ.
Điều 14 Nghị định 25/2012/NĐ-CP quy định cá nhân chỉ được sở hữu vũ khí thô sơ trong các trường hợp sau:
Vậy là cá nhân được phép sở hữu vũ khí thô sơ nếu thuộc các trường hợp trên. Nhưng việc sở hữu đó không có nghĩa là được mang theo người nhằm mục đích "tự vệ". Bởi, Điểm a Khoản 2 Điều 4 Nghị định 25/2012/NĐ-CP nghiêm cấm mang theo người, phương tiện, đồ vật, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển trái phép vũ khí thô sơ.
Như vậy, mặc dù mang vũ khí thô sơ theo người với mục đích tốt "tự vệ" nhưng hành vi đó vẫn trái với quy định của pháp luật.
Địa chỉ: | 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh |
Điện thoại: | (028) 7302 2286 |
E-mail: | info@lawnet.vn |