Một số điểm mới của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

Tại kỳ họp thứ 8, ngày 24/11/2014 Quốc hội Khóa XIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Luật này có hiệu lực từ ngày 01/6/2015[1] và thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có 11 chương và 98 điều, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân các cấp cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên.

So với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có những nội dung mới sau:

1. Về tổ chức Bộ máy

Nếu theo quy định tại điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, ở nước ta có các Tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định thì theo quy định tại điều 3 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tổ chức Tòa án ở nước ta gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự. Như vậy, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì thành lập thêm Tòa án nhân dân cấp cao trong hệ thống tổ chức Tòa án ở nước ta, cùng với sự thay đổi đó quyền hạn, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân các cấp cũng có sự thay đổi.

Theo quy định tại điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Tòa án nhân dân tối cao có Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa quân sự trung ương, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính và các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và bộ máy giúp việc. Theo quy định tại Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì trong Tòa án nhân dân tối cao không thành lập các Tòa phúc thẩm và các Tòa chuyên trách, Tòa quân sự trung ương cũng không nằm trong Tòa án nhân dân tối cao.

1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao

Tòa án nhân dân tối cao là cấp xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và chủ yếu thực hiện việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao gồm Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Bộ máy giúp việc và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.

 Theo quy định tại điều 20 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.

2. Giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định.

3. Tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

4. Đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của Tòa án nhân dân.

5. Quản lý các Tòa án nhân dân và Tòa quân sự về tổ chức theo quy định của Luật này và các luật có liên quan, bảo đảm độc lập giữa các Tòa án.

6. Trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết theo quy định của luật.

Như vậy, Tòa án nhân dân tối cao không có quyền hạn, nhiệm vụ xét xử phúc thẩm và phạm vi xét xử cũng hẹp hơn trước đây. Một phần thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao trước đây nay sẽ chuyển giao cho Tòa án nhân dân cấp cao. Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu tập trung vào việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, đào tạo, bồi dưỡng các chức danh khác của Tòa án nhân dân, quản lý các Tòa án, trình Quốc hội dự án luật, dự thảo nghị quyết và một số công việc khác.

1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao

Tòa án nhân dân cấp cao là cấp xét xử phúc thẩm và có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao gồm: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Bộ máy giúp việc.

Ngoài các Tòa chuyên trách như trước đây, nay luật mới còn quy định Tòa gia đình và người chưa thành niên[5]. Đây là một nội dung mới quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nước ta theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2014. Tòa gia đình và người chưa thành niên không phải là “Tòa án đặc biệt” và cũng không phải là một hệ thống Tòa án độc lập mà là một Tòa chuyên trách nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân. Có nhiệm vụ chuyên xét xử các vụ án và giải quyết vụ việc có liên quan đến gia đình và người chưa thành niên. Việc thành lập tòa gia đình và người chưa thành niên đáp ứng yêu cầu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và định hướng chung của cải cách tư pháp là lấy xét xử làm khâu đột phá.

Xuất phát từ những đặc thù tâm sinh lý của người chưa thành niên, đòi hỏi phải có những biện pháp xử lý và những thủ tục tố tụng đặc biệt và từ tình hình thực tế số vụ án về hôn nhân và gia đình ngày càng tăng như hiện nay cũng đòi hỏi phải có thủ tục tố tụng đặc biệt. Việc thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên nhằm triển khai các chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng. Đây là nội dung cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, các quyền của trẻ em được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

1.3. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử phúc thẩm là chủ yếu, xét xử sơ thẩm một số loại vụ án thuộc các trường hợp mà Tòa án nhân dân sơ thẩm không có thẩm quyền. Tòa án nhân dân cấp tỉnh không được quyền kháng nghị mà chỉ được quyền đề xuất lên Chánh án cấp cao hoặc với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Điều 38 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm:

a. Ủy ban Thẩm phán;

b. Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

Căn cứ quy định tại điểm này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức các Tòa chuyên trách;

c. Bộ máy giúp việc.

1.4. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương là cấp xét xử sơ thẩm hầu hết các loại vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Điều 45 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Căn cứ quy định này và yêu cầu, thực tiễn xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.

Theo quy định trên thì các Tòa chuyên trách có thể được thành lập ở các Tòa án nhân dân cấp huyện. Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Tuy nhiên, nếu như ở Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Tòa chuyên trách là Tòa hành chính thì ở Tòa án nhân dân cấp huyện nếu có thành lập Tòa này thì có tên gọi là Tòa xử lý hành chính.

Như vậy, so với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, hệ thống Tòa án nhân dân chỉ có 3 cấp là Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh và tương đương. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định thêm Tòa án nhân dân cấp cao trong hệ thống Tòa án nhân dân[6]. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao theo luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 gọn nhẹ hơn so với bộ máy tổ chức hiện hành, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao không còn có các Tòa chuyên trách nhưng thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao vẫn được bảo đảm là cơ quan xét xử cao nhất của nước ta.

 Tòa án nhân dân cấp cao sẽ thực hiện việc phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị và giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị theo quy định của Luật tố tụng.

2. Chức danh trong hệ thống Tòa án nhân dân

Thứ nhất, Trong hệ thống Tòa án có các chức danh cơ bản là Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên. Trong đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của chủ tịch nước. Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Danh sách đề nghị về việc bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao lập ra, trình Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm; các Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm trong số các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy còn định cụ thể thêm như sau: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp cao; Chánh án, phó chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện trong số các thẩm phán đã được Chủ tịch nước bổ nhiệm.

Thứ hai, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định rõ số lượng thành viên Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người; số lượng thành viên Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao không dưới 11 người và không quá 13 người, số lượng Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương  do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương số lượng không quá 9 người.

Thứ ba, Đối với ngạch Thẩm phán, Luật cũng quy định có những điểm mới sau: Thẩm phán Tòa án nhân dân gồm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; thẩm phán cấp cao; thẩm phán trung cấp; thẩm phán sơ cấp. Trong 4 cấp thẩm phán  thì thẩm phán trung cấp có thể được bổ nhiệm ở Tòa án cấp huyện, không phải như lâu nay ở cấp huyện chỉ có thẩm phán sơ cấp. Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 5 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm. Theo quy định thẩm phán các Tòa án đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Quy định này nâng cao vị thế, vai trò của thẩm phán và tạo điều kiện bảo đảm tính độc lập cao hơn của thẩm phán trong quá trình xét xử. Bên cạnh đó, luật cũng đã bổ sung các điều kiện, tiêu chuẩn để tuyển chọn, bổ nhiệm vào từng ngạch thẩm phán, trong đó quy định thành lập một Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm chủ tịch Hội đồng để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán.

Thứ tư, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định ngạch thư ký Tòa án gồm: Thư ký viên, thư ký viên chính, thư ký viên cao cấp. Như vậy, ngoài chức danh thư ký như hiện nay, luật còn quy định thêm chức danh thư ký chính và thư ký cao cấp. Trong đó, thư ký và thư ký chính do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, còn chức danh thư ký cấp cao do chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm.

Thứ năm, Luật còn bổ sung chức danh thẩm tra viên được quy định tại Điều 93 là người đã làm thư ký Tòa án từ 5 năm trở lên, được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ thẩm tra viên và được bổ nhiệm vào ngạch thẩm tra viên. Thẩm tra viên có các ngạch sau: Thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp. Chức danh thẩm tra viên và thẩm tra viên chính do chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và chức danh thẩm tra viên cấp cao do chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Thẩm tra viên có nhiệm vụ thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của chánh án.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết 49- NQ/TW, kết luật số 79-KL/TW, kết luận số 92-KL/TW, Thông báo số 181-TB/TW của Bộ Chính trị và văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, trong đó đã quy định nhiều điểm mới tiến bộ góp phần phát triển hệ thống ngành Tòa án Việt Nam ngày càng hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, nâng cao chất lượng xét xử. Để Luật tổ chức Tòa án được thực thi Trường Cán bộ Tòa án đang khẩn trương hoàn thiện các chương trình đào tạo, đào tạo nâng ngạch, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.

Nguồn: Học viện Tòa án

>> XEM BẢN TIẾNG ANH CỦA BÀI VIẾT NÀY TẠI ĐÂY

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@lawnet.vn
758 lượt xem
Liên quan Văn bản
  • Địa chỉ: 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286
    E-mail: info@lawnet.vn
Đơn vị chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;