QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số: 112/2015/QH13
|
Hà Nội, ngày 27
tháng 11 năm 2015
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI CÓ NGUỒN GỐC TỪ NÔNG TRƯỜNG, LÂM TRƯỜNG
QUỐC DOANH DO CÁC CÔNG TY NÔNG NGHIỆP, CÔNG TY LÂM NGHIỆP, BAN QUẢN LÝ RỪNG VÀ
CÁC TỔ CHỨC, HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHÁC SỬ DỤNG
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội số 05/2003/QH11;
Căn cứ Nghị quyết số 74/2014/QH13 ngày 24 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội
về chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2015;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số
958/BC-UBTVQH13 ngày 16 tháng 10 năm 2015 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách,
pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai tại các nông trường, lâm trường quốc
doanh giai đoạn 2004 - 2014 và ý kiến của đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1
Quốc hội tán thành với Báo
cáo giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả thực hiện, những hạn chế,
nguyên nhân trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai tại các nông trường, lâm trường quốc doanh giai đoạn 2004 - 2014 và các kiến
nghị, đề xuất. Quốc hội nhận thấy Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành
Trung ương và các địa phương đã tích cực tổ chức thực hiện Nghị quyết số
28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát
triển nông, lâm trường quốc doanh, Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền,
hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra và tổ chức thực hiện.
Thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ
Chính trị, các nông, lâm trường quốc doanh đã có nhiều cố gắng trong đổi mới mô
hình tổ chức và cách thức tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh. Đã có không ít
công ty nông, lâm nghiệp sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, từng bước
thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường. Hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội thời gian qua là các nông, lâm trường đã có nhiều đóng góp cho
sự nghiệp phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và nông thôn, nhất là trong xây dựng
cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, góp phần ổn định xã hội,
đảm bảo quốc phòng - an ninh; từ hạt nhân là các nông, lâm trường quốc doanh đã
hình thành nên các thị trấn, thị tứ ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Trải qua giai đoạn chuyển đổi từ cơ
chế kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, việc quản lý, sử dụng đất của các nông, lâm trường quốc doanh cùng
lúc vừa phải giải quyết những hạn chế do quá khứ để lại, vừa phải tập trung
chuyển đổi cách thức quản lý mới phù hợp với cơ chế, chính sách đất đai mới.
Trong 10 năm qua, việc quản lý, sử dụng đất đai của các nông, lâm trường trong
cả nước đã có bước chuyển biến tích cực, nhất là các đơn vị đã cổ phần hóa; tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai,
cho thuê, cho mượn đất đai trái pháp luật đã giảm; hiệu quả sử dụng đất nâng
lên, góp phần nâng cao đời sống người lao động trong các nông, lâm trường. Đến
hết năm 2014, đã có 17,1% diện tích của các công ty nông, lâm nghiệp chuyển
sang giao đất có thu tiền và thuê đất theo quy định của pháp luật; 46% diện
tích các công ty nông nghiệp; 73% diện tích của các công ty lâm nghiệp và 64%
diện tích ban quản lý rừng, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quốc hội thấy rằng, việc quản lý, sử
dụng đất đai của các nông, lâm trường còn nhiều tồn tại, hạn chế, như: Tiến độ
thực hiện rà soát, sắp xếp, đổi mới về quản lý, sử dụng đất của các nông, lâm
trường còn chậm; hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất đai còn thấp. Tình trạng
bản đồ và hồ sơ quản lý đất đai thiếu chính xác, không được chỉnh lý kịp thời,
không phản ánh đúng thực tế quản lý, sử dụng đất; việc xác định ranh giới, cắm
mốc và lập hồ sơ địa chính mới chủ yếu thực hiện trên sổ sách, chưa được xác định,
chỉ dẫn, đo đạc trên thực địa đối với hầu hết các nông, lâm trường. Đối với diện
tích đất bàn giao cho địa phương, hầu hết chưa được đo vẽ, lập bản đồ địa chính
và phương án quản lý, sử dụng. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
các nông, lâm trường còn chậm, không chính xác về ranh giới đất trên thực địa.
Tình trạng tranh chấp, vi phạm pháp luật về đất đai, như lấn chiếm, cho thuê,
cho mượn, chuyển mục đích, chuyển nhượng trái pháp luật trong các nông, lâm trường
còn nhiều. Công tác quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm tra, xác định và xử lý
trách nhiệm tổ chức, cá nhân vi phạm còn nhiều hạn chế, chưa thực hiện thường
xuyên và nghiêm túc. Quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức của các nông, lâm trường
còn lúng túng; hầu hết các nông, lâm trường mới thực hiện chuyển đổi tên gọi
thành công ty hoặc ban quản lý mà chưa có sự thay đổi căn bản về phương thức hoạt
động, cơ chế quản lý và điều hành dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh rất thấp,
quản lý và sử dụng đất đai còn lãng phí và kém hiệu quả, chưa tương xứng với
nguồn lực tài nguyên được Nhà nước giao quản lý, sử dụng. Còn thất thoát lớn tài nguyên, tài chính quốc gia có liên quan đến đất đai.
Điều 2
Để tăng cường
hiệu lực quản lý, hiệu quả sử dụng đất đai và nguồn tài chính, tài nguyên quốc
gia thuộc các công ty nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân khác sử dụng đất đai có nguồn gốc từ đất nông, lâm trường, Quốc hội
yêu cầu Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Chỉ đạo các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày
12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao
hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp. Khẩn trương xây dựng, thẩm định
và hoàn thành việc phê duyệt đề án sắp xếp, đổi mới của công ty nông, lâm nghiệp
để tổ chức thực hiện theo mô hình mới. Thực hiện việc rà soát, xác định ranh giới,
cắm mốc giới, đo đạc, lập bản đồ địa chính và hồ sơ ranh giới sử dụng đất, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thực hiện thủ tục giao đất, cho thuê đất,
xác định giá đất, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo đúng quy định của
pháp luật đối với các công ty nông, lâm nghiệp.
Đề ra giải pháp, xây dựng lộ trình đến
hết năm 2016 có phương án, kế hoạch giải quyết dứt điểm cơ bản tình hình tranh
chấp đất đai; xử lý các vi phạm pháp luật, đặc biệt là tình trạng lấn chiếm,
chuyển nhượng, chuyển mục đích, cho thuê, cho mượn, giao khoán đất trái pháp luật, không thực hiện hoặc
chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính. Tập trung chỉ đạo sớm giải quyết dứt điểm
các trường hợp tự ý xây dựng công trình, nhà ở, cư trú trái pháp luật trong phạm
vi đất, rừng do các công ty nông, lâm nghiệp quản lý. Thu hồi tài sản, đất đai
và tài chính cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.
2. Năm 2016, xây dựng và hoàn thiện đề
án tăng cường quản lý đối với đất đai có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc
doanh hiện do các công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp không thuộc diện sắp
xếp lại theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP , ban quản lý rừng và các tổ chức sự
nghiệp khác, hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Tổ chức thực hiện nghiêm túc đề án
trong giai đoạn 2016 - 2020. Quy hoạch, sắp xếp các điểm dân cư tập trung, tách
ra khỏi diện tích đất đã giao cho các công ty nông, lâm nghiệp quản lý theo quy
định của pháp luật. Tiếp tục rà soát, thu hồi diện tích đất sử dụng không hiệu
quả, sử dụng không đúng mục đích và giao lại cho địa phương để giao cho người
dân, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu hoặc không có đất ở, đất sản xuất
ở địa phương quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Xây dựng,
hoàn chỉnh chính sách bảo đảm thực hiện tốt việc giao đất, thu đúng, thu đủ tiền
thuê đất, sử dụng đất.
3. Ngân sách nhà nước cân đối, bố trí
hỗ trợ đủ cho các địa phương để thực hiện toàn bộ việc rà soát, xác định ranh
giới, cắm mốc giới, đo đạc, lập bản đồ địa chính và hồ sơ ranh giới sử dụng đất,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các công ty nông nghiệp, công ty lâm
nghiệp thuộc diện sắp xếp, đổi mới theo Nghị định số 118/2014/NĐ-CP trong 2 năm
2015 - 2016.
4. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hình
thức phá sản công ty nông, lâm nghiệp, giải thể đối với
các đơn vị sản xuất kinh doanh không hiệu
quả, thua lỗ kéo dài; cơ chế giao khoán sử
dụng đất nông nghiệp của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo
quy định của pháp luật. Ban hành cơ chế, chính sách bảo vệ rừng, gắn với giảm
nghèo bền vững; hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, người trồng
rừng, quản lý, bảo vệ rừng có thu nhập từ rừng để bảo đảm ổn định cuộc sống.
Trên cơ sở rà soát, điều chỉnh quy hoạch ba loại rừng, xác định những diện tích
đất, rừng phòng hộ xung yếu; quy hoạch, đưa diện tích đất, rừng bỏ hoang chưa sử
dụng hợp lý trước đây, chuyển sang rừng sản xuất để phát huy hiệu quả kinh tế.
Trên cơ sở đó, Nhà nước bảo đảm lực lượng và kinh phí để quản lý, bảo vệ nghiêm
ngặt và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
5. Tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán các công ty nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ chức, cá nhân
khác, trong đó tập trung vào các công ty có biểu hiện vi phạm pháp luật về quản
lý, sử dụng đất đai; xác định rõ trách nhiệm để xử lý nghiêm các vi phạm trong
quản lý, sử dụng đất tại công ty nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ
chức, cá nhân khác có nguồn gốc đất đai từ nông, lâm trường quốc doanh; xử lý,
thu hồi tài sản, đất đai, tài chính theo quy định của pháp luật.
Điều 3
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành Trung ương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết này và
những kiến nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội tại Báo cáo số 958/BC-UBTVQH13
ngày 16/10/2015 về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản
lý, sử dụng đất đai tại các nông, lâm trường quốc doanh giai đoạn 2004 - 2014.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có công ty nông, lâm
nghiệp, ban quản lý rừng chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ quản
lý nhà nước về đất đai tại địa phương; xây dựng phương án phát triển công ty
nông, lâm nghiệp gắn với đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp, tái cơ cấu sản
xuất ngành nông nghiệp, phát triển bền vững, kết hợp với giảm nghèo. Triển khai
các giải pháp cụ thể, phù hợp với địa bàn để thực hiện có hiệu quả công tác quản
lý, sử dụng đất đai tại các công ty nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng và các tổ
chức, cá nhân khác; công khai việc quản lý, sử dụng đất đai ở các công ty nông,
lâm nghiệp; phát huy dân chủ, minh bạch trong quá trình thực hiện chính sách,
pháp luật về đất đai tại địa phương.
Hàng năm Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo Thủ
tướng Chính phủ, Chính phủ báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện Nghị quyết này
của Quốc hội.
Điều 4
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.
|
CHỦ
TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Sinh Hùng
|